Phương pháp sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử
Thái Nguyễn Đức Minh Quân - Đại học Sài Gòn
1. Khái
niệm:
Theo Từ điển
tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam , sách giáo khoa là sách viết
theo một chương trình môn học.
Từ điển giáo dục học của tác giả Bùi Hiền cũng viết: sách giáo khoa (textbook) là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với mục đích
dạy và học. Thuật ngữ sách giáo khoa
còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho một ngành học. Sách giáo khoa được
viết cho nhiều ngành, nhiều cấp học nên hình thức và cấu trúc của nó cũng khác
nhau.
Ngoài ra kiến thức ở sách
phổ thông sẽ khác nhau khi học ở dạng phân ban nâng cao A B C D và phân
ban cơ bản.
2. Phân loại: Dựa theo khái
niệm, người ta chia sách giáo khoa thành hai loại:
- Theo đối tượng học tập. Do sách giáo khoa có phục vụ cho nhiều
đối tượng khác nhau (học sinh, sinh viên, học viên…), nên có nhiều loại khác
nhau. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh giáo dục trung học, sách giáo khoa được
phát hành chủ yếu phục vụi cho đối tượng là học sinh, trong bài viết này là chỉ
giới hạn học sinh trung học phổ thông (từ 16 – 18 tuổi). Đây là lứa tuổi có
nhiều phức tạp trong suy nghĩ, nhận thức và suy xét, phán đoán và lập luận một
vấn đề rất cao nên sách giáo khoa ở cấp trung học phổ thông được viết theo lối
tinh giản (tức giản lược kiến thức cơ bản), chú trọng tính suy nghĩ độc lập,
sáng tạo của các em trong việc giải quyết các vấn đề trong sách giáo khoa và
vận dụng thực tiễn.
- Theo chủ đề: ở cấp trung học phổ thông, sách giáo khoa thường
được viết ra nhiều lĩnh vực như toán học, văn học, địa lý, lịch sử và mỗi cuốn
sách viết về các lĩnh vực đó sẽ bao hàm bên trong của nó là nhiều chủ đề, vấn
đề khác nhau. Với sách giáo khoa lịch sử, nội dung bao hàm bên trong là những
chủ đề, vấn đề lien quan đến lĩnh vực mà sách muốn đề cập như chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội… Từng chủ đề trong sách được sách giáo khoa xếp theo một
trật tự, logic xác định là chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Ở mỗi chủ đề
đó, người soạn sách căn cứ theo trình độ nhận thức của học sinh và trình độ học
thuật của giáo viên để viết lại theo lối đơn giản, ngắn gọn và dễ hiểu, thêm
vào đó là các câu hỏi, bài tập. Tuy nhiên, với cấp trung học phổ thông, sách
viết theo lối đòi hỏi tư duy cao, suy nghĩ đúng và tương đối chính xác của học
sinh về một vấn đề nào đó đề cập trong sách và chú trọng vận dụng thực tiễn
cao.
3. Cấu trúc sách giáo
khoa trung học phổ thông
Khác với sách giáo khoa lịch sử trung học cơ sở, sách giáo khoa
trung học phổ thông được biên soạn (có thay đổi ít nhiều) nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh trong học tập và soạn bài. Một điểm mới của sách giáo
khoa trung học phổ thông khác trung học cơ sở là nó có sự phân ban giữa Cơ bản
và Nâng cao (chuyên ngành), cụ thể như sách giáo khoa môn lịch sử thì có 2 ban
là ban Cơ bản và ban Khoa học xã hội.
Về mặt nội dung, cũng giống như sách giáo khoa của các môn học
khác (phân ban), sách giáo khoa môn lịch sử cấu thành hai phần:
+ Phần bài viết, kênh chữ và kênh hình:
Bài viết ngắn gọn là cơ sở thông tin lịch sử để học sinh học tập
và tự học (kiến thức cơ bản, tham khảo và bổ sung kiến thức mới). Các tác giả
đã cân nhắc, lựa chọn kiến thức, xác định mức độ kiến thức để viết sách, phù
hợp với việc thực hiện mục tiêu giáo dục trong từng bài, từng chương của bộ môn
ở từng lớp và cả cấp học. Bài viết có nhiều loại kênh hình, kênh chữ. Các kênh
chữ viết to là những kiến thức cơ bản (trong đó sẽ có những khái niệm, thuật
ngữ mà học sinh sẽ hiểu rõ thông qua tìm hiểu trong sách tham khảo và qua học
tập trên lớp), kênh chữ nhỏ là phần tài liệu đọc thêm, tham khảo để bổ sung, mở
rộng kiến thức. Thông qua việc nắm những yếu tố cần thiết trong bài viết của
sách được nêu ở trên, học sinh ban Cơ bản sẽ có cái nhìn khái quát về một vấn
đề, một sự kiện lịch sử và đôi khi nâng lên thành tầm lý luận khái quát cho học
sinh ban Khoa học xã hội.
Một vấn đề nữa cũng nên nói ở đây là trong sách có các khái niệm
“kênh hình” và “kênh chữ”. Các khái niệm này nặng về mặt kiến thức hơn là về thành
phần cấu tạo nội dung, tuy nhiên chúng có quan hệ với nhau sâu sắc
+ Phần câu hỏi: Sách giáo khoa có nhiều loại câu hỏi như câu hỏi
ôn tập sau mỗi bài, câu hỏi củng cố kiến thức, câu hỏi minh họa vấn đề hoặc một
đoạn trích dẫn trong bài. Câu hỏi thường có các cụm từ là “Như thế nào”, “Vì
sao” nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản, nâng cao nhận thức của học sinh
về một sự kiện, nhân vật.
Một điểm cần chú ý đó là mỗi bài trong sách đều có phần mở đầu rất
ngắn gọn ở từng tiết, từng bài, đó là những vấn đề học sinh cần lưu ý để tập
trung theo dõi khi học tập; đồng thời là vấn đề mà giáo viên phải thực hiện qua
việc hướng dẫn học sinh tự học[1].
4. Vị trí
- Sách giáo khoa là sự cụ thể hoá
chương trình môn học do Nhà nứơc quy định, được biên soạn theo chương trình và
quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác định , trong đó phải thể hện mục đích,
yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học
- Kiến thức trong SGK phải đảm bảo
tính khoa học, tư tưởng và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh từng cấp
học, lớp học; đảm bảo tính toàn diện, phản ánh đầy đủ các mặt của xã hội loài
người theo các quy luật của khoa học lịch sử. Thông qua hệ thống kiến thức đó,
các em sẽ có thái độ đúng đắn, tình cảm phù hợp với các sự kiện, hiện tượng
lịch sử được đề cập trong sách.
- Hình thức trình bày trong sáng, rõ
ràng và các bài học, chương mục sắp xếp đúng và hợp logic giúp giáo viên và học
sinh dễ tiếp thu kiến thức khi học tập, soạn bài và chuẩn bị bài trước khi lên
lớp.
5. Ý nghĩa
- SGK là tài liệu cơ bản, bắt buộc
đối với HS và có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động học tập của các em:
+ SGK cung cấp cho HS những kiến thức
cơ bản, hiện đại có hệ thống của môn học. HS có thể tìm hiểu kiến thức qua
nhiều nguồn thông tin khác nhau nhưng kiến thức SGK là kiến thức chuẩn mực nhất
+ SGK có tác dụng củng cố, tổng hợp,
hệ thống hoá kiến thức cho HS thông qua các bài sơ kết, hướng dẫn ôn tập
+ SGK là tài liệu tin cậy cho HS tra
cứu, đối chiếu và thẩm định các tài liệu LS khác
+ SGK còn rèn luyện kĩ năng thực hành
bộ môn cho HS
+ SGK là chỗ dựa quan trọng của GV
trong quá trình giảng dạy.
6. Các phương pháp sử dụng sách giáo khoa lịch sử trong dạy
học ở trường phổ thông
Một vấn đề cần đặt ra cần giải quyết
là giáo viên nên sử dụng nội dụng bài viết của sách giáo khoa như thế nào cho
tốt, để tránh lặp lại hai khuynh hướng: thoát ly nội dung sách giáo khoa hoặc
bê nguyên xi bài viết sách giáo khoa vào bài giảng. Học sinh gặp rất nhiều khó
khăn trong việc đọc sách giáo khoa khi chuẩn bị bài ở nhà trước khi lên lớp
hoặc tiếp thu bài giảng trên lớp, không nắm được kiến thức cơ bản, cần thiết
nhất[2].
Vì sao học sinh, giáo viên lại gặp khó khăn trong việc sử dụng sách giáo khoa
lịch sử trong dạy học như vậy ? Điều này có thể giải thích bằng nhiều lý do
khác nhau: trình độ người viết sách, nội dung sách và hình thức sách trong dạy
học trường phổ thông. Hiện nay, các đầu sách giáo khoa môn lịch sử trong trường
phổ thông đều do các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ những người có trình độ cao, có
phương pháp nghiên cứu đúng đắn và cách lập luận (hay cách viết) phù hợp viết
ra. Một cuốn sách giáo khoa viết theo chương trình của Bộ Giáo dục – Đào tao
phức tạp, chia thành nhiều chương mục và mỗi chương mục đều phân công cho một
người hoặc hai, ba người viết chương mục đó. Với cách chia như vậy thì sẽ dẫn
đến một hiện tượng là các giáo sư, tiến sĩ của mình tùy theo trình độ, năng lực
mà viết. Họ viết theo suy nghĩ của mình, theo quan điểm của mình mà không quan
tâm đến trình độ của học sinh (có quyền viết dài hay ngắn là tùy vào họ), những
người sẽ học cuốn sách do họ viết vì thế dẫn đến một kết quả là nội dung sách
giáo khoa không có thống nhất giữa các chương, các mục, có chương, mục thì dài
và có chương mục thì ngắn. Điều này dẫn đến một hệ lụy là sách giáo khoa có nội
dung không đồng nhất, viết rất dài dòng (sách lịch sử lớp 10, 11, 12), chương
trình trong sách rất nặng nên học sinh, giáo viên đọc xong khó tiếp thu kiến thức
để làm nền tảng cho học tập, ôn thi và kiểm tra. Đặc biệt với học sinh lớp 10,
do trình độ tư duy khá cao (khác với lớp 8, 9 trình độ tư duy đơn giản, phụ
thuộc nội dung sách) là từ các nền sự kiện lịch sử, họ có thể khái quát hóa vấn
đề, quy luật của lịch sử nên sách viết cho lớp 10 có hướng học sinh vào tư duy,
khái quát vấn đề, nhưng do nội dung khá nặng nên rất khó cho học sinh có thể tư
duy trên nền sự kiện một cách chính xác. Nội dung sách giáo khoa lịch sử phổ
thông tuy phần lớn có sự đồng đều, thống nhất nội dung nhưng có nhiều hạn chế.
Thứ nhất là nội dụng các chương, mục phân bố không đều, cái thì dài và ngược
lại. Thứ hai, vẫn có một số sách giáo khoa viết thiếu, thậm chí viết sai nội
dung chương trình môn học. Ví dụ, Trong bài nói chuyện trên báo Tiền phong
online, GS Phan Huy Lê có nói sách giáo khoa lịch phần viết về lịch sử khai phá
Nam Bộ chưa được rõ và thiếu nội dung. Ông nói: “Trong
SGK, một quan niệm toàn bộ về lịch sử Việt Nam vẫn chưa rõ. Chẳng hạn, lịch sử
miền nam Trung Bộ và Nam Bộ chủ yếu mới bắt đầu từ khi người Việt vào đây, tức
từ thế kỷ XVI, XVII. Hoặc nhà Mạc là một vương triều tồn tại trong thế kỷ XVI
cũng không có chỗ trong SGK”[3].
Báo Thanh niên số ra năm 2012, cũng có chỉ ra sai sót của lịch sử và Thành nhà
Hồ trong nội dung sách. Sách giáo khoa lớp 7 có nhắc đến nhà Hồ nhưng nhập
chung vào nhà Trần mà không tách thành chương riêng. Sở dĩ có tình trạng như
vậy là do một số sử gia không coi nhà Hồ là chính thống mà coi là ngoại tộc
(như vấn đề nhà Triệu của Triệu Đà cũng xem xét chính thống hay không chính
thống) như Ngô Sĩ Liên thì cho rằng triều đại “thoán vị” cướp ngôi chứ không
phải được nhà Trần nhường ngôi. Tác giả bài viết kêu gọi các sử gia nhìn nhận
lại vấn đề nhà Hồ trong sử Việt với đóng góp của ông cho đất nước thời kỳ cuối
thế XIII đầu thế kỷ XIV. Sách giáo khoa phổ thông vừa thừa vừa thiếu, phần Lịch
sử Việt Nam từ 1945 – 1975 nặng về kháng chiến chống Pháp, phong trào cách
mạng, hai cuộc kháng chiến 1945 – 1975 mà phần văn hóa lại rất mờ nhạt[4].
Sách giáo khoa lịch sử lại chậm cập nhật kiến thức mới. Chẳng hạn, trang 73,
Lịch sử 6 in năm 2008 vẫn ghi: Dương Đình Nghệ, quê ở làng Ràng (Dương Xá, Đông
Sơn, Thanh Hóa). Trong khi từ năm 1996, tên làng đã được đổi thành "Làng
Giàng", và chính người dân địa phương, hay trên cổng thông tin điện tử
Thanh Hóa vẫn gọi tên làng là Làng Giàng. Hoặc như sách giáo khoa lịch sử 6,
lịch sử Champa chỉ có một tiết nói từ thế kỷ II đến thế kỷ V, chưa cập nhật các
thành tựu khảo cổ học lúc đó. Hình thức của sách giáo khoa thì chưa thay đổi,
có nhiều sách lịch sử ít kênh hình, tư liệu lịch sử….
Trước
những hạn chế lớn của sách giáo khoa như vậy, các nhà nghiên cứu đã tìm nhiều
cách để giải quyết mối quan hệ giữa nội dung sách giáo khoa với bài giảng của
giáo viên, giữa sách giáo khoa với việc tự học của học sinh. Bằng kết quả thực
nghiệm sư phạm trong nhiều năm, tiến sĩ N. G. Dairi đề xuất cách sử dụng sách
giáo khoa minh họa bằng sơ đồ sau:
1
|
2
|
|
2
|
3
|
Con số “2” chỉ phần nội dụng vừa có
trong bài giảng, vừa có trong sách giáo khoa. Đó là những vấn đề chủ yếu nhất,
khó hiểu nhất. Việc lĩnh hội kiến thức ấy một cách sâu sắc và vững chắc là
nhiệm vụ hàng đầu.
Con số “1” chỉ phần của tài liệu
giảng dạy không có trong sách giáo khoa: thầy giáo chỉ đưa phần này vào bài
giảng, cố gắng làm cho bài giảng có tính khoa học ở mức độ cao, làm cho bài
giảng đủ rõ ràng, có sức thuyết phục phù hợp với trình độ học sinh.
Con số “3” chỉ nội dung sách giáo
khoa, mà không đưa ra để giải thích trong giờ học. Thường thường, đó là phần
tài liệu kém quan trong, nhưng đôi khi nó lại quan trọng mà không đưa vào được
do thiếu thời gian[5]. Nội
dung của con số “3” chính là tài liệu lịch sử địa phương, tài liệu tham khảo và
các loại đồ dùng trực quan khác làm rõ ô số “2”, chứ không phải kiến thức góp
phần làm nặng nề bài học.
Việc bổ sung sách giáo khoa và cụ thể
hóa những luận điểm chung trong sách giáo khoa không những làm cho bài giảng
thêm dễ hiểu hơn mà còn tạo cho nó có tính hấp dẫn, cảm xúc và động viên được
tính tư duy của học sinh[6].
Bởi vì, “tài liệu học tập tự đã chứa đựng nhiều yếu tố kích thích, động viên
tính ham hiểu biết và tính tích cực của học sinh. Đó là tính chất mới lạ của tư
duy của khoa học, tính sáng tỏ của sự kiện, tính độc đáo của các kết luận,
phương pháp đặc sắc để phát hiện ra những khái niệm đã được hình thành, sự xâm
nhập sâu xa vào các bản chất của sự kiện…”[7].
Do đó, theo Dairi, “nhiệm vụ đầu tiên trước khi chuẩn bị vào giờ học là xác
định xem nội dung nào của SGK sẽ đưa vào hay không đưa vào bài giảng, nội dụng
nào cần bổ sung và vì sao bổ sung như thế nào cho biến cố, quá trình lịch sử
được miêu tả và giải thích một cách đúng đắn, trọn vẹn. Chỉ với cách xử lý như
vậy chúng ta mới đạt được mục đích mở rộng thông tin và mới tập trung cố gắng
một cách đầy đủ vào những nội dung quan trọng nhất”[8].
Việc sử dụng sơ đồ Dairi trong sách
giáo khoa có ý nghĩa quan trọng trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Về mặt lý
luận, tài liệu học tập của học sinh và “điểm tựa” của giáo viên chính là sách
giáo khoa. Việc biên soạn sách giáo khoa phải tuân theo các nguyên tắc xây dựng
chương trình giáo dục, trong đó có nguyên tắc xây dựng chương trình phù hợp với
tình hình, nhiệm vụ của đất nước và trình độ khoa học. Tuy nhiên trong một
chừng mực nào đó, sách giáo khoa thường lạc hậu so với khoa học hiện đại và nó
được viết cho hầu hết cho người dân các vùng miền, mọi đối tượng học sinh chứ
không viết riêng cho một đối tượng nào. Vì thế, giáo viên phải biết gia công
tài liệu cho phù hợp, truyền sức sống cho các kiến thức còn ẩn tàn trong sách
nhằm đảm bảo chuẩn kiến thức, tạo điều kiện cho học sinh khá giỏi vươn lên.
Đồng thời, giáo viên phải luôn nghiên cứu, tìm đọc các tài liệu, tư liệu mới bổ
sung vào bài giảng làm cho bài học thêm phong phú, sâu sắc, phản ánh kịp thời
tính hiện đại của tri thức lịch sử cần lĩnh hội vào bài giảng, nhằm đảm bảo
tính khoa học của giảng dạy.
Về thực tiễn, do yêu cầu của bài học
lịch sử là 45 phút cho nên giáo viên không thể truyền đạt hết cho các em những
gì sách giáo khoa đã viết, mà chỉ chọn lọc những kiến thức cơ bản để giúp học
sinh hiểu rõ sự kiện và hiện tượng lịch sử; ngoài ra giáo viên có thể mở rộng
kiến thức bằng những tư liệu bổ sung, góp phần làm phong phú bài giảng và giúp
các em khắc sâu kiến thức quan trọng, đồng thời hướng dẫn các em học tập và
chuẩn bị bài ở nhà trước khi lên lớp. Mâu thuẫn đó đặt ra cho giáo viên nhiều
vấn đề phải giải quyết: khối lượng thông tin mà học sinh nhận được, tính hứng
thú đối với giờ học và sách giáo khoa, mức độ lĩnh hội tài liệu, thời gian
chuẩn bị bài ở nhà và làm công việc khác.
Tóm lại, việc sử dụng sơ đồ Dairi vừa
có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc, giúp giáo viên khắc phục được mâu
thuẫn trong quá trình dạy học, tránh được tình trạng quá tải và tạo hứng thú
cho học sinh trong dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên,
giáo viên cũng nên lưu ý rằng việc sử dụng sơ đồ Dairi cần linh hoạt, không
công thức, tùy theo nội dung bài giảng và trình độ cụ thể của học sinh cũng như
điều kiện cụ thể của dạy học.
Bằng lý luận dạy học và kinh nghiệm
thực tế ở nhà trường phổ thông, chúng ta có thể xác định cách sử dụng sách giáo
khoa như sau:
Thứ nhất, đối
với giáo viên, để sử dụng sách giáo khoa lịch sử được tốt, đúng mục đích và yêu
cầu bài học lịch sử, người giáo viên cần thực hiện các công việc sau là: (1)
xác định kiến thức cơ bản trong bài giảng; (2) sử dụng tranh ảnh trong sách
giáo khoa lịch sử và (3) sử dụng hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa để phát
huy tính tích cực, độc lập nhận thức của học sinh[9].
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu các công việc của giáo viên khi sử dụng sách giáo
khoa trong dạy học lịch sử.
a. Xác định kiến thức cơ bản của bài giảng: việc làm này có vai trò quan trọng
vì nó giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ nội dung của sách giáo khoa cũng như
bài giảng của giáo viên. Để xác định kiến thức của bài giảng, giáo viên thực
hiện các bước sau:
·
Nghiên
cứu nội dung chương trình sách giáo khoa. Để làm được điều này, giáo viên phải:
-
Nghiên
cứu tên bài học là việc đầu tiên của giáo viên trước khi chuẩn bị bài giảng, vì
việc này giúp định hướng cho giáo viên cho việc xác định kiến thức cơ bản cần
thiết cho bài giảng, kiến thức tham khảo để làm rõ bài giảng và phương pháp
truyền đạt cần thiết để cho học sinh hiểu và nắm được nội dung bài học.
-
Xác
định kiến thức cơ bản. Muốn làm được giáo viên phải đọc toàn bộ nội dung trong
sách giáo khoa, trong đó chú ý các nội dung chính (đặc biệt có dính dáng đến
tên bài học) rồi sau đó tóm tắt lại; tìm các thuật ngữ, khái niệm loại ra riêng
để giải thích sau đó lồng vào bài dưới dạng các câu hỏi để kích thích học sinh
suy nghĩ và trả lời. Ngoài ra, giáo viên cũng xác định vị trí của kiến thức cơ
bản trong bài (tất nhiên là nó có vị trí quan trọng) để chú ý và làm rõ cho bài
giảng của mình, chú ý thời gian để xác định nó cho bài giảng.
-
Đối
chiếu nội dung mục và tên bài để tìm ra sự liên quan giữa hai vấn đề này với
nhau. Các đề mục trong bài thường gắn với các mảng kiến thức khác nhau nhưng
những cái này đều là sự khai triển vấn đề mà tựa bài học đưa ra. Mục có nội
dụng kiến thức liên quan đến tên bài thì thường kiến thức cơ bản sẽ tập trung
nhiều nhất ở đó.
Ví dụ sau đây sẽ làm rõ các thao tác
của quy trình trên: Để xác định kiến thức cơ bản của bài 8: Sự hình thành và
phát triển các vương quốc chính ở Đông Nam Á” (sách giáo khoa lớp 10 chương
trình chuẩn), chúng ta cần khai thác các yếu tố cơ bản của sách như:
- Tên bài: “Sự hình thành và phát
triển của các quốc gia Đông Nam Á” đòi hỏi giáo viên phải tập trung làm rõ quá
trình hình thành và những biểu hiện của sự phát triển của một số quốc gia chính
ở khu vực Đông Nam Á.
- Đoạn tóm tắt nội dung bài viết: “Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là khu
vực địa lý – lịch sử - văn hóa riêng biệt còn được gọi là khu vực châu Á gió
mùa. Gió mùa kèm theo mưa rất thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp lúa
nước. Trên cơ sở phát triển của đồ sắt và nền nông ngiệp lúa nước, từ những thế
kỷ đầu của Công nguyên, các vương quốc cổ đầu tiên đã được thành lâp ở Đông Nam
Á; tiếp đó đến khoảng thế kỷ IX – X, các quốc gia phong kiến Đông Nam Á được
xác lập và phát triển thịnh đạt cho tới nửa đầu thế kỷ XVIII”, chủ yếu nhấn
mạnh hai vấn đề: Một là, điều kiện dẫn đến sự ra đời của các quốc gia Đông Nam
Á là do sự xuất hiện của công cụ đồ sắt và sự phát triển kinh tế nông nghiệp
lúa nước; Hai là, các giai đoạn hình thành và phát triển của các quốc gia Đông
Nam Á.
- Các câu hỏi chính trong bài: Điều
kiện hình thành các vương quốc cổ ở Đông Nam Á là gì ? Điều kiện tự nhiên của
Đông Nam Á có những thuận lợi và khó khăn gì cho sự phát triển kinh tế và lịch
sử của khu vực ? Sự phát triển thịnh đạt của các quốc gia Đông Nam Á thế kỷ X –
XVIII được biểu hiện như thế nào ? Lập bảng tóm tắt các giai đoạn lịch sử lớn
trong sự phát triển của các quốc gia Đông Nam Á..... cũng tập trung vào việc
làm sáng tỏ điều kiện hình thành các quốc gia Đông Nam Á và các giai đoạn phát
triển của khu vực.
- Các tài liệu trực quan như hình 20
“Lược đồ các quốc gia Đông Nam Á cổ đại và phong kiến (SGK/47), hình 21 “Toàn
cảnh đô thị cổ Pagan” (SGK/48), hình 22 “Toàn cảnh khu đền tháp Borobudur”
(SGK/49) nhằm cụ thể hóa sự phát triển của nền kinh tế và văn hóa của các quốc
gia Đông Nam Á.
- Nội dung mục 2 “Sự hình thành và
phát triển của các quốc gia Đông Nam Á” có liên quan trực tiếp đến nội dung bài
học. Đó là sự tiếp nối trong phát triển lịch sử lịch sử từ vương quốc cổ sang
các vương quốc phong kiến.
Dựa vào những yếu tố trên, giáo viên
có thể xác định đúng kiến thức cơ bản mà học sinh phải nắm vững khi nghiên cứu
bài học này: Những điều kiện dẫn đến sự ra đời, phát triển của các quốc gia
Đông Nam Á và những biểu hiện ấy.
·
Xác
định được mục tiêu bài học, từ đó đi sâu vào kiến thức cơ bản
Một yêu cầu quan trọng của giáo viên
trong việc thiết kế bài giảng đó là xác định chính xác mục tiêu bài học trên
các mặt: kiến thức, tư tưởng và kỹ năng. Việc xác định đúng mục tiêu là rất quan
trọng, nó giúp định hướng cho giáo viên và học sinh trong suốt tiến trình hoạt
động dạy học, từ đó giúp giáo viên hoàn thành mục tiêu của khóa trình, của môn
học và của bài học. Hiện nay có nhiều tài liệu giúp giáo viên xác định mục tiêu
bài học như sách giáo viên, sách thiết kế giáo án môn lịch sử, tài liệu tham
khảo dùng trong giảng dạy lịch sử… tuy nhiên những tài liệu này chỉ mang tính
gợi ý cho giáo viên tham khảo, chứ không hoàn toàn mang tính áp đặt. Bài giảng
trên lớp chỉ mang dấu ấn của cá nhân giáo viên, thể hiện trình độ chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm của mình chứ không rập khuôn theo một khuôn mẫu nào cả. Giáo
viên có thể tự mình xác định mục tiêu bài học dựa trên sách giáo khoa. Và tất
nhiên, mục tiêu bài học phải có 3 mục chính: kiến thức, tư tưởng và kỹ năng,
trong đó quan trọng nhất là phải nắm vững kiến thức cơ bản của bài học. Từ việc
nắm vững kiến thức bài học, giáo viên tiến hành các thao tác sư phạm để giảng
giải kiến thức ấy để giúp học sinh nắm vững, khắc sâu kiến thức cơ bản của bài
học, bồi dưỡng tình cảm cho học sinh và đồng thời rèn luyện các kỹ năng cho học
sinh như kỹ năng diễn đạt, kỹ năng đọc bản đồ, tranh ảnh…
Ví dụ, khi dạy học bài 20: Cuộc kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1946 – 1954)”, căn cứ vào vị trí
của bài trong chương, ta cần xác định rõ mục đích của bài học này là: Về phía
địch, trong thời gian cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta,
Pháp gặp nhiều khó khăn về binh lực cũng như trang thiết bị, chiến lược, Mỹ
ngày càng can thiệp sâu vào Việt Nam, cùng Pháp thực hiện âm mưu mới thâm độc
thể hiện trong kế hoạch Navarre. Còn ở phía ta, trước âm mưu của địch ta đã
chuẩn bị sẵn thế và lực vững mạnh, đủ sức chống lại kế hoạch của Pháp – Mỹ. Với
mục đích bài học như vậy, khi dạy tiết 1 của bài, giáo viên sẽ phải làm rõ các
kiến thức cơ bản: kế hoạch Navarre để thấy rõ âm mưu thâm độc của Pháp – Mỹ,
chủ trương chiến lược của ta và thắng lợi to lớn của quân dân ta ở Điện Biên
Phủ, đây chính là kiến thức cơ bản cần nắm vững để qua đó học sinh hiểu được vì
sao quân ta đánh thắng được địch trong chiến dịch Điện Biên Phủ và trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong mục I và mục II phần 1: Cuộc
tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954, giáo viên có thể đi lướt âm mưu
của địch, kế hoạch của ta và những thắng lợi bước đầu trong chiến cuộc Đông –
Xuân 1953 – 1954, song ở hai mục này, giáo viên cần làm rõ 2 kiến thức cơ bản
sau: (1) là kế hoạch Navarre, âm mưu của Pháp – Mỹ ở Đông Dương và (2) chiến
cuộc Đông – Xuân 1953 – 1954 của quân dân ta, thắng lợi bước đầu làm phá sản kế
hoạch Navarre của địch. Ở kiến thức (1) giáo viên cần làm rõ hoàn cảnh và nội
dung kế hoạch Navarre và khẳng định cho học sinh biết rằng, kế hoạch Navarre
thực chất chính là âm mưu mới của Pháp và Mỹ ở chiến trường Đông Dương. Với kế
hoạch quân sự quan trọng này, Pháp – Mỹ hy vọng rằng, chiến tranh của chúng
chống lại quân dân ta sẽ giành một thắng lợi quyết định trong 18 tháng để “kết
thúc chiến tranh trong danh dự”. Đó là những cố gắng lớn nhất và cuối cùng của
thực dân Pháp, có sự giúp đỡ to lớn của Mỹ (giải thích thêm câu nói của Thủ
tướng Laniel để chứng minh điều đó)[10].
Ở kiến thức (2), giáo viên cũng đi lướt qua, nhưng cần khẳng định cho học sinh
biết rằng: thực hiện chủ trương chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 của Đảng, ta
đã tấn công địch ở nhiều nơi, buộc địch phải phá sản kế hoạch tập trung quân ở
đồng bằng Bắc Bộ, phân tán ra nhiều nơi để tấn công ta. Chính chủ trương chiến
lược đúng đắn của Bộ Chính trị đã dẫn đến thắng lợi to lớn của quân dân ta mà đỉnh
cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Thắng lợi to lớn về quân sự đưa tới
thắng lợi của ta trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta sở dĩ giành thắng lợi to
lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp là do nhiều nguyên nhân, trong đó sự lãnh
đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, tài chỉ huy của Võ Nguyên Giáp
là nhân tố quan trọng nhất. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp có ý
nghĩa lớn đối với nước ta và thế giới. Đạt được những nhận thức trên sẽ giúp
học sinh có các kỹ năng như phân tích, so sánh, đánh giá các sự kiện lịch sử;
giáo dục học sinh lòng tự hào và niềm tin vào Đảng và Chính phủ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, lòng kính yêu các anh bô đội Cụ Hồ…
·
Việc
tìm các tài liệu tham khảo để bổ sung vào bài giảng nhằm làm rõ kiến thức cơ
bản
Những tư liệu tham khảo
bổ sung đưa vào bài giảng, không những giúp học sinh hiểu sâu sắc bài học, mà
còn tác động mạnh đến tư tưởng và tình cảm của học sinh. Tư liệu tham khảo đó
chính là tài liệu, tư liệu lịch sử, tài liệu văn học có liên quan đến bài học
giáo viên sẽ dạy. Giáo viên cần tìm đọc những tài liệu này, tìm các nội dung
phù hợp với trình độ học sinh và bài học để đưa vào bài dạy. Để làm được điều
này, giáo viên cần:
+ Căn cứ vào nội dung của
từng phần bài học để lựa chọn cho phù hợp. Những nội dung lịch sử cần cụ thể
hóa, ví du như miêu tả, tường thuật sự kiện, trận đánh thì giáo viên tìm các
hồi ký, ký sự và kể chuyện lịch sử... Những nội dung cần phân tích, khái quát
thì giáo viên tìm đọc các tác phẩm kinh điển của Marx, Engels, Lenin và các nhà
cách mạng, văn hóa nước ta, sách đại học, sách chuyên đề… Khi tìm đọc các tài liệu này, nhất
thiết giáo viên phải tìm tài liệu chính thống hay các tài liệu của các nhà khoa
học có uy tín trong ngành để đọc. Đọc để so sánh, đối chiếu với bài viết trong
sách giáo khoa để tìm ra những ý cơ bản (trong đó có thể là những tư liệu mới,
đoạn trích, hồi ký, những mẩu chuyện lịch sử có liên quan đến nội dung chính
của bài) để lồng vào bài giảng. Các ý cơ bản đó, thông thường giáo viên có 2
cách sử dụng: Một là, những giáo viên
nào có trí nhớ tốt thì đọc qua một lần hay vài lần thì sẽ nhớ và đập vào óc của
mình là những ý cơ bản (cùng với lối diễn đạt trong tài liệu) sau đó họ sẽ ghi
lại những gì họ nhớ được khi đọc các tài liệu cùng chủ đề vào giấy nháp rồi
diễn đạt lại theo ý riêng của mình. Hai
là, những giáo viên nào trí nhớ chưa được tốt thì khi đọc tài liệu, thấy ý
nào hay và phù hợp với bài học thì cẩn thận viết vào một cuốn sổ tạm gọi là Tập tài liệu lịch sử. Trong tài liệu
này, họ sẽ đọc lại các ý mà họ viết được, sau đó sắp xếp lại theo một trật tự
xác định, logic, phù hợp với cấu trúc bài học và trình độ của giáo viên. Sử
dụng tốt những tài liệu có được liên quan đến bài học, rút ra những ý cơ bản đó
giúp giáo viên có cơ sở để sắp xếp các ý này theo đúng cấu trúc bài học, đúng
chủ đề, nội dung và phù hợp với trình độ học sinh (dĩ nhiên điều đó có thực
hiện được hay không tùy thuộc vào việc chuẩn bị kỹ bài học, kỹ năng – nghiệp vu
của mình trong khi giảng bài để có được bài giảng hay, thu hút được học sinh
tham gia xây dựng bài học và họ tiếp thu, khắc sâu kiến thức cơ bản mà giáo
viên truyền đạt).
+ Trên cơ sở tài liệu
được chọn, giáo viên căn cứ vào đặc điểm đối tượng, nội dung kiến thức, thời
lượng dạy học để xác định cho phù hợp. Một điều này nữa là khi chọn tài liệu
đọc rồi trích vào bài giảng, giáo viên chọn lọc với mức độ vừa phải, phù hợp
với thời lượng bài học. Chúng tôi xin đưa ra một số gợi ý cho vấn đề này: nếu
với một bài học kéo dài 45 phút (1 tiết) thì phân bố phù hợp, nếu bài đó có nội
dung yêu cầu miêu tả và tường thuật thì được sử dụng trong giới hạn thời gian
từ 15 - 20 phút đối với các bài về sự kiện quân sự, chính trị. Còn bài về văn
hóa thì giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp miêu tả, hoặc tường
thuật trong khoảng 15 - 20 phút, với nhân vật văn hóa, quân sự có thể kể chuyện
(tài liệu là Mẩu chuyện lịch sử, Việt sử giai thoại...) và miêu tả khoảng 10 -
15 phút... cho phù hợp với thời lượng bài học và tất nhiên không dạy, nói quá
thời gian quy định trên vì nếu làm như vậy, bài giảng của giáo viên sẽ loãng,
học sinh không tiếp thu dẫn đến mất tập trung và gây ồn ào, ảnh hưởng đến chất
lượng dạy học.
Trở lại ví dụ trên, chúng
ta sẽ thấy rõ điều này. Để học sinh hiểu rõ tình hình Pháp - Mỹ trước khi thực
hiện kế hoạch Navarre, giáo viên đọc các tài liệu như Lịch sử Việt Nam 1945 -
1975 của Hồ Sĩ Khoách, Hà Minh Hồng và Võ Văn Sen; Điện Biên trong lịch sử của
Đinh Xuân Lâm; Điện Biên Phủ (tư liệu của khoa lịch sử Đại học Sư phạm Hà Nội)
của Phan Ngọc Liên...., các tài liệu đó cung cấp khá nhiều thông tin liên quan
đến bài học. Cuối cuộc chiến tranh Đông Dương, Pháp gặp trên chiến trường Đông Dương, như Mỹ
gửi cho Pháp 1.400 xe tăng, 360 máy bay, 173.000 súng các loại và cả cố vấn Mỹ[11].
Viện trợ tài chính cũng tăng dần lên: từ 52 tỉ USD (1950) lên tới 555 tỉ USD
(1953) (gấp 10 lần, chiếm 73% ngân sách của Mỹ)[12].
Để làm nổi bật sự tài
tình của ta, nêu rõ chủ nghĩa anh hùng cách mạng ở Điện Biên Phủ, nguyên nhân
và kết quả, giáo viên tìm các hồi ký, ký sự để cụ thể hóa một số nhân vật tiêu
biểu... Ví như, khi nói đến gương hy sinh của Tô Vĩnh Diện, giáo viên có thể
kể: "Khi quân ta được lệnh kéo pháo ra để chuẩn bị kỹ lưỡng hơn, đêm tối,
đường dốc, dây kéo pháo bị đứt và khẩu pháo từ từ lao thẳng xuống vực. Làm thế
nào để kéo pháo lại ? Trong phút nguy nan ấy, Tô Vĩnh Diện hô anh em "Thà
hy sinh, quyết bảo vệ pháo". Thế là anh buông tay lái, xông lên trước, lao
vào chèn bánh pháo". Hoặc lúc trình bày về cuộc tấn công Him Lam của quân
dân ta để làm nổi bật gương hy sinh anh dũng của Phan Đình Giót: Ngày
13/3/1954, quân ta tấn công Him Lam. Sau một đợt yểm trợ, bộ binh ta tiến lên
chiếm lấy các cứ điểm. Đại đội bộc phá của Phan Đình Giót được lệnh tiến lên
phía trước. Địch bắn ào ào và liên tục, nhưng đại đội của anh vẫn không chùn
bước mà tiếp tục tiến lên, phá thủng 4 hàng rào và 1 mảng lô cốt. Trong lúc
quân ta so kè kịch liệt với Pháp, anh Giót bị thương và lô cốt số 3 vẫn bắn ào
áo ngăn cản bước tiến của đồng đội anh. Anh quyết định bò lên dưới làn mưa đạn,
nhổm lên tường vào thẳng lỗ châu mai của lô cốt 3, áp chặt lưng vào đó. Khi hỏa
lực của địch tắt hẳn cũng là lúc anh hy sinh, quân ta tiến chiếm gọn được Him
Lam". Những tư liệu này có tác dụng giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ
bản, giáo dục lòng kính yêu anh bộ đội và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
Khi trình bày về cuộc tiến công khu
trung tâm Mường Thanh - Hồng Cúm, tùy
vào thời gian, giáo viên có thể giới thiệu sơ lượt làm nổi bật chiến công của
các chiến sĩ Vinh (tên thật Hoàng Đăng Vinh) và Nhỏ (có tài liệu gọi là Ngọ,
tên thật Bùi Văn Nhỏ)[13]
trong đại đội Tạ Quốc Luật: “Tối
mồng 1/5, quân ta xung phong bất ngờ
tiêu diệt địch chiếm hoàn toàn đồi C1. Chiều mồng 6/5, tiếng nổ lớn của khối
bộc phá 1 tấn phát ra mở đầu hiệu lệnh tổng công kích của quân ta. Đến 17 h 30
phút, quân ta đánh thẳng vào trung tâm Mường Thanh, bao vây hầm của De
Castries. Tạ Quốc Luật chỉ huy một nhóm chiến sĩ (Vinh, Nhỏ…) truy kích đến tận
hầm De Castries. Bốn xe tăng đỗ quanh cửa hầm liên tục nhả đạn vào quân ta để
bảo vệ chỉ huy. Vinh, Nhỏ bò tới gần sát 4 xe tăng, ném lựu đạn vào xe, một xe
đứt xích, một chiếc nổ tung và hai chiếc còn lại bỏ chạy để lộ ra cửa hầm chỉ
huy không người bảo vệ. Hai chiến sĩ mỗi người xông vào một cửa hầm và ném lựu
đạn vào đó. Trong làn khói mù mịt họ nhìn thấy một tên lính Pháp giơ tay hàng
và qua tên lính này mới biết chỗ ở của De Castries. Vinh giáp mặt với De
Castries. Đúng lúc đó các chiến sĩ khác cùng xông tới. Họ cùng các anh bắt sống
tướng De Castries cùng toàn bộ ban chỉ huy… Lá cờ quyết chiến quyết thắng của
quân ta tung bay trên nóc hầm De Castries. Đêm hôm đó, quân ta tiêu diệt nốt
Hồng Cúm, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi”[14].
Những tư liệu này có tác dụng quan trọng trong việc giúp các em nắm vững kiến
thức cơ bản, giáo dục lòng kính yêu các anh bộ đội và niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng.
* Dựa vào bài viết trong sách giáo
khoa để xác định cấu trúc nội dung lịch sử của bài giảng
Khi nghiên cứu bài viết của sách giáo
khoa, giáo viên cần căn cứ vào các ý trong nội dung để xây dựng cấu trúc bài
giảng nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản, dễ học và dễ nhớ. Muốn vậy,
các công việc giáo viên cần làm là:
- Đối với các bài viết quá dài mà
không thể tách thành các mục nhỏ, để giúp học sinh dễ theo dõi bài và nắm vững
kiến thức, giáo viên tách nhỏ các ý, tìm các tiêu đề sát hợp trên cơ sở hệ
thống kiến thức cơ bản của sách giáo khoa.
-
Nếu cấu trúc trong nội dung bài viết của sách giáo khoa có nhiều điểm
chưa thật hợp lý, giáo viên có thể thay đổi, gộp lại, thêm hoặc bớt các mục nhỏ
(tùy theo sự sáng tạo của giáo viên).
Sử dụng sơ đồ Dairi đề khai thác nội
dung bài viết trong sách giáo khoa là một biện pháp sư phạm có ý nghĩa quan
trọng. Nó giúp giáo viên tránh được xu hướng vẫn thường xảy ra là thoát ly sách
giáo khoa hoặc nói lại nội dung sách giáo khoa. Giải quyết tốt mối tương quan
giữa nội dung bài viết trong sách giáo khoa và nội dung bài giảng của giáo viên
sẽ làm bài giảng sinh động, hấp dẫn để phát huy tính tích cực của học sinh, góp
phần nâng cao hiệu qua dạy học bộ môn.
b. Sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa và những đồ dùng trực quan
trong dạy học lịch sử
Cùng với việc sử dụng bài viết trong
sách giáo khoa (kênh chữ), giáo viên cũng quan tâm đến việc sử dụng kênh hình.
Bởi vì, kênh hình không chỉ làm nội dung sách giáo khoa thêm sinh động, bài
giảng hấp dẫn mà còn là nguồn kiến thức, một bộ phận không thể tách rời khỏi
bài viết. Do đó kênh hình có tác dụng không chỉ là giáo dục mà còn tác dụng về
giáo dưỡng và phát triển. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào sử dụng được kênh
hình trong sách giáo khoa.
- Sử
dụng lược đồ: Để sử dụng tốt lược đồ trong sách lịch sử vào bài giảng, giáo
viên cần làm các công việc sau:
+ Chuẩn bị: Đối với sách giáo khoa có
kèm theo bản đồ, lược đồ in sẵn dùng chung cả lớp thì giáo viên phải nghiên cứu
kỹ bản đồ, lược đồ này. Nếu trong sách giáo khoa có bản đồ nhưng không có lược
đồ phóng to, giáo viên và học sinh có thể tự vẽ trên giấy khổ lớn (khổ A1, A0)
hoặc vẽ ra bảng phụ. Khi tự vẽ cần tuân theo các nguyên tắc của bản đồ lịch sử.
+ Căn cứ vào lý luận dạy để phân loại
bản đồ (bản đồ chuyên đề hay tổng hợp), nghiên cứu kỹ nội dung sách giáo khoa
và các ký hiệu hiển thị trên lược đồ để xác định nội dung cơ bản được phản ánh
trên lược đồ.
+ Xác định phương pháp, cách sử dụng
và thời điểm sử dụng. Trong khi sử dụng lược đồ, giáo viên luôn chú ý đến sự
tri giác của học sinh, giúp các em đọc được ký hiệu, phân tích, rút ra kết luận
khái quát … về các sự kiện lịch sử được phản ánh trong lược đồ.
- Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo
khoa lịch sử
Hình vẽ, tranh ảnh lịch
sử phản ảnh sinh động một sự kiên lịch sử hay hoạt động của nhân vật lịch sử,
hoạt động xã hội, có thể là tranh vẽ do người đương thời hay đời sau vẽ lại,
hoặc là ảnh chụp về các hoạt động của con người... Vì thế, khai thác nội dung
tranh ảnh trong dạy học lịch sử là một biện pháp sư phạm quan trọng, giúp học
sinh hình dung được quá khứ, làm phong phú kiến thức cho các em. Song công việc
này cũng hết sức khó khăn với giáo viên, nó đòi hỏi giáo viên phải có trình độ
hiểu biết nhất định để trình bày một tranh ảnh. Trên thực tế không ít giáo viên
không nắm được nội dung tranh ảnh và dùng như phương tiên minh họa cho học sinh
ngắm nhìn, bàn tán mà không giúp các em hiểu được chính xác kiến thức
được phản ánh qua tranh ảnh, học sinh gây ồn ào, mất trật tư và làm ảnh hưởng
đến chất lượng bài giảng. Do đó, để sử dụng tranh ảnh có hiệu quả phải chuẩn bị
kỹ nội dung, xây dựng các bài tường thuật, miêu tả. Ví như, khi dạy bài cách
mạng tư sản Pháp, giáo viên xây dựng bài tường thuật, có kết hợp miêu tả và
diễn đạt biểu cảm. Hoặc ở lớp 10, khi dạy bài Việt Nam trước nguy cơ bị thực dân Pháp xâm lược, giáo viên sử dụng
bức tranh "lính hoàng thành" để tạo biểu tượng về quân đội nhà Nguyễn.
Nhìn vào bức tranh ta thấy hình ảnh 4 người lính trang bị rất đơn giản, mặc
quân áo vải, đi chân đất, bắp chân quấn xà cạp, đầu đội nón được. Hai người
lính đứng bên tường thành, lưng đeo gươm, người đứng phải thì tay cầm cờ dài,
có giáo nhọn. Phía trước là hình ảnh người lính đan ngồi với ngọn giáo dài đặt
ngang người, tay trái tựa lên nòng súng đại bác với vẻ mặt mệt mỏi, chán
chường. Góc trái là hình ảnh người lính ngồi quay lưng lại có vẻ mặt bàng quan
với công việc của mình. Vũ khí binh lính Nguyễn thường dùng là súng kíp, hỏa
mai, đại bác bằng đồng. Họ có nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Chính sự lạc hậu về vũ
khí, yếu kém về tinh thần của binh lính nhà Nguyễn là mọt trong những nguyên
nhân làm khả năng phòng thủ đất nước bị giảm sút dẫn tới sự thất bại của quân
nhà Nguyễn trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp".
Phương pháp sử dụng:
- Cho học sinh quan sát
bức tranh, áp dụng các phương pháp miêu tả và tường thuật, cộng với lời nói
diễn cảm của giáo viên giúp học sinh có hứng thú và quan sát ngay vào hình theo
lời nói và cử chỉ của giáo viên. Và, để giúp học sinh chú ý hơn vào tranh ảnh
của mình, giáo viên nên đặt ra một số câu hỏi gợi mở tìm hiểu nội dung bức
tranh, từ đó rút ra những kiến thức lịch sử cho mình.
Trở lại ví dụ trên. Đối với tranh ảnh về binh lính nhà Nguyễn, giáo viên đặt các câu hỏi sau:
Trở lại ví dụ trên. Đối với tranh ảnh về binh lính nhà Nguyễn, giáo viên đặt các câu hỏi sau:
+ Quan sát bức tranh em
thấy có những hình ảnh gì ?
+ Em có nhận xét gì về
trang phục và vũ khí thời Nguyễn ?
+ Bức tranh gợi cho em
những suy nghĩ gì về binh lính thời Nguyễn ?
Trên cơ sở quan sát và hệ
thống câu hỏi gợi ý như trên, giáo viên cho học sinh suy nghĩ, rút ra câu trả
lời và từ đó, hệ thống lại thành kiến thức cơ bản. Giáo viên uốn nắn sai sót,
bổ sung và cuối cùng là chốt lại bài học.
+ Sử dụng các ảnh chân dung các nhân
vật lịch sử
Sử dụng các ảnh chân dung
các nhân vật lịch sử. Đối với loại tranh ảnh này, giáo viên chú ý không nên
hướng học sinh quan sát nhiều về bên ngoài của nhân vật, mà nên khai thác cái
bên trong của nhân vật đó là tính cách, tài đức, quan niệm nội tâm của nhân
vật. Đồng thời, giáo viên kể thêm tiểu sử của nhân vật giúp học sinh hiểu nhân
vật một cách sâu sắc, trọn vẹn. Để khai thác, giáo viên cần làm các công việc
sau:
- Nắm vững nội dung bài
giảng, các tri thức lịch cần hình thành cho học sinh trong bài giảng
- Hiểu sâu sắc nội dung
bức ảnh mà chính bức ảnh phản ánh để suy nghĩ về những dự định sư phạm, biện
pháp sử dụng tranh ảnh đó cho phù hợp với khả năng nhẫn thức của học sinh.
Tranh ảnh lịch sử được sử
dụng trong dạy học có nhiều loại nên giáo viên tùy vào nội dung tranh ảnh mà có
cách sử dụng phù hợp. Có loại khi sử dụng kết hợp miêu tả và vấn đáp, có loại
là miêu tả kết hợp kể chuyện, rồi có loại kết hợp miêu tả với tường thuật... và
có loại ra dưới dạng bài tập cho học sinh tìm hiểu. Sử dụng tranh ảnh trong dạy
học lịch sử có ý nghĩa quan trọng là góp phần hình thành kỹ năng đọc và miêu
tả, tường thuật lại tranh ảnh theo yêu cầu của giáo viên (thường là dưới dạng
bài tập về nhà hoặc câu hỏi trả bài trước lớp đầu tiết học) và đồng thời, giáo
viên thông qua công việc sử dung tranh ảnh cũng góp phần rèn luyện lại chuyên
môn, phương pháp dạy học của mình.
Ngoài các kênh hình trong
sách giáo khoa, giáo viên có thể lên kế hoạch tự tìm các tranh ảnh khác, đồ
dùng trực quan hoặc huy động học sinh xây dựng, sưu tầm bộ đồ dùng trực quan
môn lịch sử để áp dụng cho hầu hết các tiết học lịch sử của học sinh trên lớp,
nếu kênh hình trong sách chưa đủ. Khi xây dựng cần căn cứ theo lý luận của môn
học mà áp dụng phù hợp.
c. Sử dụng hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa
Trong sách giáo khoa,
thông thường đến cuối mỗi đề mục, cuối bài học thì những người soạn sách đặt ra
các câu hỏi. Mục địch của các câu hỏi này là giúp học sinh củng cố kiến thức đã
nắm được khi học xong phần đó hay mục đó, và giúp học sinh vận dụng kiến thức
đã học vào các vấn đề thực tế (cũng thuộc nội dung bài học). Thông thường, giáo
viên căn cứ vào vị trí nội dung câu hỏi, mục đích đặt câu hỏi để hướng dẫn học
sinh trả lời. Để làm được điều này, chúng tôi gợi ý một số cách sử dụng:
- Sử dụng câu hỏi trong sách giáo khoa, thường là ở cuối bài
để làm bài tập nêu vấn đề ở đầu giờ. Điều này có tác dụng rất lớn, thu hút sự chú ý,
động viên khả năng nhận thức của học sinh vào bài mới và câu hỏi dạng này
thường là kiến thức cơ bản học sinh cần nắm vững trong bài học. Để làm được
điều này, giáo viên cần:
+ Trả lời được các câu
hỏi để nắm nội dung chính của bài.
+ Gia công sư phạm một số
câu hỏi thành các bài tập nhân thức.
Ví dụ, khi dạy bài 33 Hoàn thành cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu
và Mỹ giữa thế kỷ XIX, giáo viên có thể hỏi những câu đại loại như: Tại sao
nói sự nghiệp thống nhất nước Đức, Ý và nội chiến Mỹ mang tính chất là một cuộc
cách mạng tư sản ? xây dựng thành bài tập nhận thức đầu giờ cho học sinh.
Nếu không thể dùng câu hỏi cuối bài biến nó thành bài tập nhận thức đầu giờ, giáo viên có thể dựa vào sách giáo khoa, sách giáo viên kết hợp các câu hỏi cuối mục để tìm ra nội dung chính của bài giúp học sinh nhận thức, từ đó xây dựng bài tập nêu vấn đề. Ví dụ, khi dạy bài 19 (lịch sử 10) Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X - XV, giáo viên dựa vào sách giáo viên, các câu hỏi cuối mục để khái quát lại thành bài tập nêu vấn đề: Trong quá trình xây dựng đất nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, nhân dân ta liên tục phải kháng chiến chống ngoại xâm và đã ghi vào lịch sử những chiến công chói lọi. Những thắng lợi đó diễn ra như thế nào ? Kết quả ra sao ? Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của những chiến công đó ?
Nếu không thể dùng câu hỏi cuối bài biến nó thành bài tập nhận thức đầu giờ, giáo viên có thể dựa vào sách giáo khoa, sách giáo viên kết hợp các câu hỏi cuối mục để tìm ra nội dung chính của bài giúp học sinh nhận thức, từ đó xây dựng bài tập nêu vấn đề. Ví dụ, khi dạy bài 19 (lịch sử 10) Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X - XV, giáo viên dựa vào sách giáo viên, các câu hỏi cuối mục để khái quát lại thành bài tập nêu vấn đề: Trong quá trình xây dựng đất nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, nhân dân ta liên tục phải kháng chiến chống ngoại xâm và đã ghi vào lịch sử những chiến công chói lọi. Những thắng lợi đó diễn ra như thế nào ? Kết quả ra sao ? Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của những chiến công đó ?
- Sử dụng câu hỏi trong sách giáo khoa làm câu hỏi gợi mở trong quá trình
tiến hành bài học. Các cẩu hỏi trong sách giáo khoa chủ yếu yêu cầu học sinh
nắm vững những vấn đề cụ thể, giúp học sinh hiểu từng bộ phận, từng phần ở
trong bài. Sử dung các câu hỏi này giúp học sinh tìm được những ý cần thiết để
trả lời vấn đề đặt ra ở đầu bài học. Ví dụ, để trả lời cho câu hỏi nêu ra đầu
giờ bài 33, sách lịch sử 10: Tại sao nói sự nghiệp thống nhất nước Đức, Ý
và nội chiến Mỹ mang tính chất là một cuộc cách mạng tư sản ? Giáo viên có
thể sử dụng các câu hỏi trong bài để gợi ý: Hãy trình bày những nét chính về
tình hình nước Đức giữa thế kỷ XIX ? Diễn biến quá trình thống nhất Đức ? Diễn
biến quá trình thống nhất Ý ? Diễn biến nội chiến Mỹ ? .... Trả òời được những
câu hỏi này tức là học sinh đã nắm vũng những ý cần thiết cho bài tập nêu vấn
đề ở đầu bài. Trong trường hợp câu hỏi trong sách quá dài, giáo viên gia công
thêm cho câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu và học sinh dễ trả lời, nếu cần thiết giáo
viên có thể bổ sung các câu hỏi khác...
Thứ hai, đối với học sinh thì người
giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng sách giáo khoa trong việc
học môn lịch sử
* Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa trong giờ học trên lớp
Đối với học sinh, sách
giáo khoa là tài liệu cơ bản để tự học tập. Nó có ý nghĩa lớn đối với học sinh
về các mặt như cung cấp kiến thức, giáo dưỡng và phát triển, cho nên có thể
nói, sách giáo khoa là người thầy thứ hai của học sinh. Vì vậy biết sử dung
sách giáo khoa trong học tập trên lớp và ở nhà là rất cần thiết. Giáo viên cần
có kỹ năng hướng dẫn học sinh biết sử dụng sách giáo khoa.
* Hướng dẫn học sinh sử
dụng sách giáo khoa trong giờ học trên lớp
Sách giáo khoa là người
bạn đồng hành, thân thuộc với học sinh trong quãng đời đi học của mình, vì vậy
biết sử dụng và sử dung như thế nào là vấn đề đặt ra đối với giáo viên. Muốn
vậy, giáo viên cần:
- Yêu cầu học sinh chăm
chú nghe giảng, tích cực suy nghĩ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi mà giáo viên
đặt ra, nắm vững nội dung chính và ghi theo ý hiểu của mình vào vở ghi.
- Rèn luyện cho học sinh
thao tác nhanh nhẹn khi sử dụng sách giáo khoa trong các trường hợp:
+ Nghiên cứu sách giáo
khoa để trao đổi, thảo luận trong nhóm nhằm giải quyết vấn đề mà giáo viên đặt
ra.
+ Quan sát kênh hình
trong sách, đi theo gợi ý của giáo viên để tìm ra nội dung chính trong kênh
hình.
+ Nghiên cứu các đoạn
trích dẫn trong sách theo gợi ý của giáo viên để hiểu nội dung của đoạn trích.
+ Nghiên cứu nội dung bài
viết kết hợp sơ đồ, lược đồ và các ký hiệu trong lược đồ để trình bày diễn biến
của sự kiện lịch sử.
+ Tự đọc các đoạn có nội
dung ít phức tạp trong sách, theo hướng dẫn của giáo viên để rút ra kiến thức.
- Hướng dẫn học sinh hiểu
sự thống nhất giữa bài giảng của giáo viên và nội dung của sách giáo khoa; điều
này tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tự học ở nhà.
- Hướng dẫn học sinh nắm
vững các mối liên hệ giữa các phần, các chương trong sách giáo khoa để giúp các
em thấy được tính hệ thống của kiến thức lịch sử.
* Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa trong học tập ở nhà để học
bài cũ và chuẩn bị bài mới. Muốn giúp học sinh làm tốt việc này, giáo viên
cần:
- Hướng dẫn học sinh biết
học bài cũ trên cơ sở nắm vững nội dung sách giáo khoa và vở ghi để nắm vững
nội dung cơ bản trong sách, hiểu rõ những điều phân tích, bổ sung làm sâu sắc
hơn kiến thức trong sách của giáo viên. Ví dụ, khi học bài Chiến thắng biên giới thu - đông
1950 ở lớp 12 THPT, sách giáo
khoa trình bày rất cô đọng, học sinh bổ sung những hiểu biết và nhớ lại lời dạy
của giáo viên về các vấn đề: Tại sao mở màn chiến dịch, quân ta lại đánh Đông
Khê ? Tại sao ta chủ động mở chiến dịch ? Tại sao ta thắng lợi ở chiến dịch
Biên giới ?
- Biết tự trả lời các câu
hỏi, làm được bài tập trong sách giáo khoa. Để rèn luyện cho học sinh kỹ năng
này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện: Xác định yêu cầu câu hỏi (bài
tập), xác định nội dung câu trả lời có trang sách giáo khoa và tài liệu tham
khảo, dự kiến câu trả lời dưới dạng dàn ý, tái hiện lại kiến thức và lập đề
cương, viết chi tiết câu trả lời và tự trình bày vấn đề.
- Đọc trước sách giáo
khoa bài tiếp theo để chuẩn bị cho bài mới (đọc và ghi tóm tắt bài viết trong
sách giáo khoa, ghi những nội dung khó hiểu, các thuật ngữ và khái niệm khó...)
Tóm lại, sử dụng tốt sách
giáo khoa trong dạy học lịch sử là một kỹ năng nghiệp vụ sư phạm bộ môn góp
phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Để rèn luyện kỹ năng này giáo viên cần
phải nắm vững nội dung công việc của kỹ năng, nắm vững lý luận dạy học bộ môn
và thường xuyên vận dụng trong chuẩn bị, giảng bài để biến những kiến thức đã
học, hiểu được trở thành hoạt động thực tiễn và dần dần thành thạo.
7. Vấn đề đổi mới sách giáo khoa trong việc dạy và học ở
trường trung học phổ thông.
Vấn đề hiện nay đang là
một vấn đề rất phức tạp và gây nhiều khó khăn trong các trường trung học, các
ban ngành, đoàn sở và Bộ Giáo dục. Trải qua nhiều lần thay đổi về cấu trúc, nội
dung cũng như hình thức của sách, sách giáo khoa được thay đổi ít nhiều phù hợp
với nội dung và yêu cầu đổi mới của nước ta hiện nay. Theo dòng lịch sử giáo
dục Việt Nam thì vào trước
và sau Đổi mới, sách giáo khoa được cải cách, thay đổi ít nhiều phù hợp với
trình độ học sinh – giáo viên và thực tế công cuộc đổi mới Việt Nam .
Đến năm 2006, sách giáo khoa trung học phổ thông bắt đầu phân ban thành hai ban
là Cơ bản và Nâng cao (Ban Khoa học Tự nhiên và Ban Khoa học Xã hội). Chương
trình giáo dục và sách giáo khoa theo định hướng trên cũng bị phân thành chương
trình cơ bản và nâng cao. Tuy nhiên, theo Báo
cáo đánh giá 3 năm thực hiện chương trình sách giáo khoa trung học phổ thông
(thống kê năm 2009) theo hướng phân ban thì như sau:
· Phụ lục 1: Tỷ
lệ % HS học theo Ban:
Năm học
|
Lớp
|
Ban KHTN
|
Ban KHXH
|
Ban cơ bản
|
2006-2007
|
10
|
19.38
|
6.41
|
74.22
|
2007-2008
|
11
|
15.22
|
3.03
|
81.75
|
12
|
18.38
|
4.79
|
76.83
|
|
2008-2009
|
10
|
14.24
|
1.92
|
83.84
|
11
|
16.07
|
2.68
|
81.26
|
|
12
|
18.73
|
4.55
|
76.72
|
· Phụ lục 2: Tỷ lệ %
HS học phân hóa trong ban cơ bản (Phân hóa theo khối thi ĐH: A; B; C; D):
Năm học
|
Lớp
|
Cơ bản-A
|
Cơ bản-B
|
Cơ bản -C
|
Cơ bản -D
|
Học 1-2 môn nâng cao
|
Không học nâng cao
|
2006-2007
|
10
|
16.35
|
4.57
|
9.44
|
7.22
|
6.34
|
31.68
|
2007-2008
|
10
|
15.44
|
3.0
|
5.07
|
7.17
|
2.79
|
48.29
|
11
|
15.63
|
2.66
|
5.85
|
6.12
|
3.16
|
43.42
|
|
2008-2009
|
10
|
17.24
|
2.72
|
3.62
|
5.15
|
4.64
|
50.47
|
11
|
17.30
|
2.65
|
3.84
|
4.96
|
4.16
|
48.35
|
|
12
|
16.14
|
2.5
|
4.22
|
5.14
|
3.95
|
44.77
|
Theo đánh giá chung của Bộ, chương trình phân
ban là theo đúng quan điểm, lập trường của chủ nghĩa Marx – Lenin, có cập nhật
tư liệu mới, đảm bảo tính khoa học chính xác và phù hợp với trình độ của học
sinh. Hạn chế của chương trình là môn học còn yêu cầu cao, nặng về kiến thức mà
chưa “mở” để phát huy tính tích cực của học sinh, ứng dụng công nghệ thông tin
còn hạn chế[15]. Những
hạn chế trên được các cấp, các ngành rút kinh nghiệm triển khai cho các đợt đổi
mới sách giáo khoa tiếp sau.
Nhưng, mặc dù có những cải tiến nhất
định, sách giáo khoa trung học phổ thông vẫn không tránh được những hạn chế
nhất định. Năm 2012, trong bài viết đã báo cáo cho Hội thảo: “Đổi mới sách giáo
khoa để chấn hưng giáo dục”, TS Hồ Thiệu Hùng đã nói lên tình trang sách giáo
khoa cấp 3 bị các nhà trường “phê phán đủ điều” là: (1) Nội dung ôm đồm, dư nhiều kiến thức chưa thiết thực
(thậm chí xa rời nhu cầu thực tế), nhưng thiếu nhiều
kiến thức rất cần cho cuộc sống hiện tại (và tương lai); (2) Thiếu tính tích hợp các kiến thức; (3)
Hình thức chưa thu hút người học, sau khi học xong không đọng lại gì trong
lòng; (4)Xu hướng muốn chiếm vị trí độc tôn
suốt mọi bậc học. Tất nhiên, xu hướng này mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào ý thức
của người dạy (đặc biệt là dạy các môn khoa học xã hội). Đồng thời, TS Hùng cũng
đưa ra nhiều giải pháp để chấn hưng sách giáo khoa như: đổi mới nội dung học
tập, đội ngũ viết sách, công bố chương trình lên phương tiện thông tin đại
chúng và lập Hội đồng thẩm định sách. Ông cũng ví quá trình sách như một con đường dài (con đường cao tốc) và tốn
nhiều tiền của, riêng bậc trung học phổ thông ông cho rằng muốn viết được sách
phải tốn đến 7.500 tỷ đồng[16].
Mới đây (đầu năm 2012),
Chính phủ ra quyết định chi 70.000 tỷ đồng để thay sách giáo khoa trung học phổ
thông. Quyết định của Chính phủ gây khá nhiều tranh cãi, trong đó phe không
đồng ý chiếm tỷ lệ khá cao. Các nhà nghiên cứu giáo dục như GS Nguyễn Minh
Thuyết, GS Hoàng Tụy, GS Văn Như Cương không đồng ý với quyết định trên và cho
rằng nên giảm nhẹ và đơn giản hóa nội dung chương trình (Văn Như Cương), đổi
mới toàn diện, không chắp vá (Hoàng Tụy). Các giáo sư khác như Nguyễn Lân Dũng
thì đề nghị lựa chọn các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực để viết, tham khảo
chương trình giáo dục của các nước phát triển như Mỹ, Anh, Nhật để định hướng
cho chương trình giáo dục…
Như vậy, qua sơ lược lịch
sử giáo dục Việt Nam (đặc biệt là trung học phổ thông), ta thấy sách giáo khoa
mặc dù có những cải cách, để ra các ưu điểm nhất định nhưng đồng thời cũng “trả
lại” cho giáo dục Việt Nam khá nhiều khuyết điểm cần được khắc phục. Rồi đây,
đến năm 2015 khi Chính phủ quyết định cải cách lại sách giáo khoa, đổi mới về
nội dung và hình thức thì may ra, tình hình giáo dục nước ta có được phát triển
để theo kịp trình độ phát triển của thế giới hay không ? Câu hỏi đó chúng tôi
xin dành cho các nhà chiến lược, nhà quản lý giáo dục và giáo viên trả lời….
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Giáo dục đào tạo (2007), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên, thực hiện
chương trình sách giáo khoa lớp 11, môn Lịch sử, NXB Giáo dục.
2. Nguyễn Thị Côi (chủ biên) (2009), Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch
sử, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.
3. Diễn đàn trường Đại học Tây Bắc
(2010), Những chiến sĩ Điện Biên tham gia
bắt sống tướng Đờ Cát, trang: http://www.taybacuniversity.edu.vn/forum/viewtopic.php?f=25&t=7054
4. N. G. Dairi (1978), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào ?,
Đặng Bích Hà, Nguyễn Cao Lũy dịch, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
5. Quý Hiên (2012), Cần sửa ngay sách giáo khoa, Báo Tiền phong online, xem: http://www.tienphong.vn/giao-duc/595953/Can-sua-ngay-sach-giao-khoa-tpp.html
6. TS Hồ Thiệu Hùng, “Đổi mới sách giáo
khoa để chấn hưng giáo dục”, tài liệu Hội thảo, http://hoithao.sachhay.org/2012/05/oi-moi-sach-giao-khoa-e-chan-hung-giao.html
7. I. F. Kharlamov (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh
như thế nào ?, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2004), Phương pháp dạy học lịch sử, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
9. Phan Ngọc Liên (1999), Thiết kế bài giảng lịch sử ở trường THPT,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Sở Giáo dục đào tạo Bến Tre (2010),
“Nhìn lại ba năm đổi mới chương trình, sách giáo khoa trung học phổ thông”, http://www.bentre.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=532:nhin-li-3-nm-i-mi-chng-trinh-a-sach-giao-khoa-trung-hc-ph-thong&catid=69:i-mi-phng-phap-dy-hc&Itemid=96
[1] Bộ Giáo
dục đào tạo (2007), Tài liệu bồi dưỡng
giáo viên, thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 11, môn Lịch sử, NXB
Giáo dục, trang 78 – 79.
[2] Phan
Ngọc Liên (chủ biên) (2004), Phương pháp
dạy học lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 53.
[3] Quý Hiên
(2012), Cần sửa ngay sách giáo khoa, Báo
Tiền phong online, xem: http://www.tienphong.vn/giao-duc/595953/Can-sua-ngay-sach-giao-khoa-tpp.html
[4]
Thanh niên (2012), Sai sót môn lịch sử
trong sách giáo khoa và sự thật về Thành nhà Hồ, xem: http://congly.com.vn/xa-hoi/van-de-quan-tam/sai-sot-mon-lich-su-trong-sach-giao-khoa-va-su-that-ve-thanh-nha-ho-14393.html
[5] N.
G. Dairi (1978), Chuẩn bị giờ học lịch sử
như thế nào ?, Đặng Bích Hà, Nguyễn Cao Lũy dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 14.
[6] I.
F. Kharlamov (1978), Phát huy tính tích
cực học tập của học sinh như thế nào ?, NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 72.
[7]
Kharlamov (1978), Phát huy tính tích cực
học tập của học sinh như thế nào ?, sđd, trang 71.
[8] N. G.
Dairi (1978), Chuẩn bị giờ học lịch sử
như thế nào ?, sđd, trang 14 -15.
[9] Nguyễn
Thị Côi (chủ biên) (2009), Rèn luyện kỹ
năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội, trang 98 –
107.
[10] Bộ Giáo
dục và Đào tạo (2008), Lịch sử 12
(sách giáo viên), NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 157.
[11]
Phan Ngọc Liên (1999), Thiết kế bài giảng
lịch sử ở trường THPT, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, trang 288.
[12]
Hồ Sĩ Khoách (1996), Lịch sử Việt Nam
1945 – 1975, NXB Tủ sách Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh,
trang 91.
[13] Diễn
đàn trường Đại học Tây Bắc (2010), Những
chiến sĩ Điện Biên tham gia bắt sống tướng Đờ Cát, trang: http://www.taybacuniversity.edu.vn/forum/viewtopic.php?f=25&t=7054
[14] Phan
Ngọc Liên (1999), Thiết kế bài giảng lịch
sử ở trường THPT, sđd, trang 292.
[15] Sở Giáo
dục đào tạo Bến Tre (2010), “Nhìn lại ba năm đổi mới chương trình, sách giáo
khoa trung học phổ thông”, http://www.bentre.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=532:nhin-li-3-nm-i-mi-chng-trinh-a-sach-giao-khoa-trung-hc-ph-thong&catid=69:i-mi-phng-phap-dy-hc&Itemid=96
[16] TS Hồ
Thiệu Hùng, “Đổi mới sách giáo khoa để chấn hưng giáo dục”, tài liệu Hội thảo, http://hoithao.sachhay.org/2012/05/oi-moi-sach-giao-khoa-e-chan-hung-giao.html