Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Sách giáo khoa lịch sử mới sẽ thế nào ?

Sách giáo khoa lịch sử mới sẽ thế nào ?

Tuổi Trẻ - 08/06/2013 11:25

TTCT - Nhiều chuyên gia về lịch sử đã cho rằng một cuốn sách giáo khoa sử hợp lý hơn sẽ là thứ quan trọng giúp thay đổi hiện trạng dạy và học sử hiện nay... Vậy vấn đề quan trọng này đang được tiếp cận ra sao?

 “Những người biên soạn SGK môn lịch sử thiếu vắng bộ lịch sử Việt Nam chuẩn để xem như tài liệu chính thống làm cơ sở viết SGK”
PGS Nghiêm Đình Vỳ
Khi cùng các chuyên gia bàn về sách giáo khoa (SGK) lịch sử trong trường phổ thông mới đây, GS Phan Huy Lê đã hỏi: “SGK lịch sử của ta quá mỏng, chỉ vài chục trang nhưng học sinh lại thấy nặng nề, bị quá tải, vậy tại sao SGK nước khác có thể dày trên trăm trang nhưng học sinh lại học nhẹ nhàng?”. Nhiều chuyên gia sử học khi bàn về SGK lịch sử đã phê phán cách “giảm tải” của Bộ GD-ĐT khi cắt bớt vài phần, vài bài trong SGK là “quan niệm giảm tải rất cơ học và lệch lạc”.
Nhưng vài chục hay vài trăm trang lại không phải là điều còn khúc mắc. Bởi như GS Đỗ Thanh Bình, Trường đại học Sư phạm Hà Nội, viện dẫn: “Lịch sử nước Mỹ chỉ có bề dày trên 200 năm, không phải từ 2.500-2.700 năm như Việt Nam, nhưng SGK lịch sử của họ có độ dày xấp xỉ 1.000 trang với nguồn sử liệu phong phú và hệ thống kênh nhìn (tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ) đa dạng. Ví dụ SGK lịch sử lớp 11 của Mỹ có độ dày 832 trang, với hơn 80 bản đồ lịch sử, 55 biểu bảng, 65 tư liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh. SGK lịch sử lớp 11 của ta chỉ có độ dày tương đương với lớp 6 của Romania”.

“Những người biên soạn SGK môn lịch sử thiếu vắng bộ lịch sử Việt Nam chuẩn để xem như tài liệu chính thống làm cơ sở viết SGK”
PGS Nghiêm Đình Vỳ
Khi cùng các chuyên gia bàn về sách giáo khoa (SGK) lịch sử trong trường phổ thông mới đây, GS Phan Huy Lê đã hỏi: “SGK lịch sử của ta quá mỏng, chỉ vài chục trang nhưng học sinh lại thấy nặng nề, bị quá tải, vậy tại sao SGK nước khác có thể dày trên trăm trang nhưng học sinh lại học nhẹ nhàng?”. Nhiều chuyên gia sử học khi bàn về SGK lịch sử đã phê phán cách “giảm tải” của Bộ GD-ĐT khi cắt bớt vài phần, vài bài trong SGK là “quan niệm giảm tải rất cơ học và lệch lạc”.
Nhưng vài chục hay vài trăm trang lại không phải là điều còn khúc mắc. Bởi như GS Đỗ Thanh Bình, Trường đại học Sư phạm Hà Nội, viện dẫn: “Lịch sử nước Mỹ chỉ có bề dày trên 200 năm, không phải từ 2.500-2.700 năm như Việt Nam, nhưng SGK lịch sử của họ có độ dày xấp xỉ 1.000 trang với nguồn sử liệu phong phú và hệ thống kênh nhìn (tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ) đa dạng. Ví dụ SGK lịch sử lớp 11 của Mỹ có độ dày 832 trang, với hơn 80 bản đồ lịch sử, 55 biểu bảng, 65 tư liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh. SGK lịch sử lớp 11 của ta chỉ có độ dày tương đương với lớp 6 của Romania”.
Còn để lý giải việc “SGK ngàn trang nhưng học sinh vẫn học nhẹ nhàng”, GS Trần Thị Vinh (Đại học Sư phạm Hà Nội) cho biết: “Việc dạy học lịch sử ở Mỹ bám sát chuẩn quốc gia môn sử, mục đích giúp học sinh biết cách khai thác, sử dụng các nguồn tư liệu khác nhau. Ví dụ yêu cầu đối với học sinh lớp 6 là hiểu các sự kiện lịch sử cơ bản, nhận thức mối quan hệ con người - sự kiện - địa danh lịch sử; lớp 7-8 làm quen kỹ năng phân tích sự kiện lịch sử, kết nối hiện tại với quá khứ, sử dụng bản đồ, xây dựng biểu đồ bằng cách hiểu của mình...
Như vậy, kiến thức đề cập trong SGK chỉ là phương tiện, tài liệu tham khảo chứ không phải nội dung buộc phải thuộc lòng như cách dạy ở Việt Nam”.
Từng có nghiên cứu, so sánh và hiểu rõ đâu là sự khác biệt trong mục đích dạy sử và trong biên soạn SGK sử của Việt Nam và các nước, từ người giữ trọng trách tầm quốc gia như PGS Nghiêm Đình Vỳ - chủ tịch hội đồng bộ môn lịch sử (Bộ GD-ĐT) - đến người đào tạo giáo viên sử của một trường đại học như GS Trần Thị Vinh đều khẳng định tầm quan trọng của việc “hiểu” sử thay vì “thuộc sử”, đặc biệt là thiết kế những mức độ học tập khác nhau, tùy thuộc năng lực và sở thích của học sinh trong môn sử.
Như vậy, một nền tảng mới cho môn sử từ bây giờ có thể được thiết lập trên cơ sở những thay đổi về nhận thức, quan niệm và phương pháp... như đã thấy. Vấn đề còn lại là làm thế nào?
“Ta chưa có một chuẩn quốc gia về kiến thức, kỹ năng. Không có chuẩn, người viết sách không có điểm tựa”
GS Đỗ Thanh Bình
Thiết kế chương trình “đường thẳng” thay cho “đồng tâm”, cấu trúc chương trình SGK lịch sử từ tiểu học tới THPT ra sao là những điều đang gây tranh cãi quyết liệt. Chạm đến cấu trúc môn học, nhiều nhà sử học, trong đó có những người từng tham gia biên soạn SGK lịch sử phổ thông, “chín người mười ý”. \
Nhưng với quan điểm “làm nhẹ” việc dạy sử ở tiểu học và phân hóa ở THPT theo các chuyên đề, phù hợp với nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp của học sinh, nhiều nhà sử học, chuyên gia giáo dục nghiêng về giải pháp bỏ cách dạy “thông sử” ở tiểu học, thay bằng việc “thiết kế một chương trình dưới dạng câu chuyện lịch sử hoặc truyền thuyết dân gian, làm quen với nhân vật lịch sử, tấm gương yêu nước, nhà văn hóa tiêu biểu...” như đề xuất của GS Đỗ Thanh Bình.
Ở bậc trung học, những đề xuất, tranh luận về cấu trúc chương trình - SGK lịch sử còn phức tạp hơn. GS Vũ Dương Ninh đưa ra nhiều phương án khác nhau, trong đó có phương án dạy lịch sử Việt Nam trên nền lịch sử thế giới và môn sử được gọi tên là Quốc sử, trong đó lịch sử thế giới được giới thiệu như bối cảnh có tác động đến dòng lịch sử Việt Nam. Nếu việc phân luồng mạnh hơn sau THCS, có thể có một số học sinh không học lên THPT mà vào trường nghề thì ở bậc THCS cần dạy để học sinh có hiểu biết cơ bản về lịch sử dân tộc.
Còn bậc THPT, môn sử sẽ dạy theo các chuyên đề phù hợp với mô hình dạy học phân hóa theo nhu cầu, định hướng nghề nghiệp của học sinh. Sự thuyết phục của quan điểm này khá rõ, song không phải không có người tiếc nuối “chương trình đồng tâm” (nâng cao yêu cầu theo cấp học), hoặc có người lại đề xuất thiết kế chương trình lịch sử phổ thông theo trục thời gian (từ cổ đến kim), theo không gian (quốc gia, khu vực), có ý kiến muốn thiết kế cấu trúc chương trình theo hướng chọn các chủ đề, lĩnh vực khác nhau (chính trị, văn hóa, xã hội...).
May mắn là dù nghiêng về ý kiến nào thì nhìn chung đều gặp nhau ở một điểm “hạn chế kiến thức hàn lâm, liều lượng kiến thức” đối với học sinh, yêu cầu đối với các em sẽ được đặt ra tùy thuộc tâm lý, nhận thức lứa tuổi.
“Cần thành lập trung tâm nghiên cứu SGK lịch sử. Vì từ trước tới nay việc viết SGK chỉ dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm. Kết quả là mỗi môn có cách viết khác nhau, thậm chí cùng một môn học có những cách viết khác nhau, không có sự nhất quán, chưa đáp ứng yêu cầu. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam có thể thành lập trung tâm này và giao hội giáo dục lịch sử của các trường ĐH sư phạm làm nòng cốt.
PGS Nghiêm Đình Vỳ
Khi bàn về chương trình - SGK lịch sử mới đây, có khá nhiều luồng ý kiến ủng hộ hướng “một chương trình - nhiều bộ SGK”. Bộ GD-ĐT khi đó chỉ chịu trách nhiệm thành lập hội đồng thẩm định SGK được phép đưa vào nhà trường. Việc lựa chọn sách nào để dạy tùy thuộc vào giáo viên, dù họ vẫn cần tuân thủ kế hoạch và nội dung dạy học, việc kiểm tra đánh giá cũng như kỳ thi quốc gia vẫn theo chương trình thống nhất trên toàn quốc.
Người đứng đầu hội đồng bộ môn lịch sử quốc gia - PGS Nghiêm Đình Vỳ cũng đồng tình: “Các cá nhân, tập thể đều có quyền viết SGK, trong đó có thể khuyến khích cả giáo viên phổ thông tham gia khâu viết sách và thẩm định”.
Nhưng theo các chuyên gia thì với “nhiều bộ SGK”, Bộ GD-ĐT cần phải ban hành chuẩn quốc gia môn sử, các nhà trường cũng phải quán triệt việc dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh căn cứ theo chương trình, theo chuẩn chứ không theo SGK.
“Việc lấy một bộ SGK duy nhất làm “chuẩn mực” (trên thực tế đông đảo giáo viên coi SGK là “pháp lệnh”) thì chỉ có thể tạo ra những “con người công cụ” mà không khuyến khích sự phát triển năng lực tư duy khoa học một cách tự do, sáng tạo. Cần quản lý việc dạy học lịch sử theo chương trình môn học và khuyến khích biên soạn, xuất bản những bộ SGK khác nhau, do các cá nhân, nhóm các nhà khoa học, giáo dục thực hiện với các cấu trúc, cách thể hiện khác nhau” - PGS Vũ Quang Hiển nhấn mạnh.
Cụ thể hóa điều này, GS Vũ Dương Ninh cho rằng: “Đội ngũ viết SGK cần có sự kết hợp giữa thầy ở đại học với thầy ở phổ thông, không chỉ chọn người giỏi về chuyên môn mà phải giỏi về kỹ năng sư phạm, chọn người có trình độ khoa học, nắm bắt vấn đề cơ bản, hiện đại, đồng thời biết cách vận dụng phù hợp với tâm lý, tư duy của học sinh”.
Thậm chí còn đi xa hơn, GS Trần Thị Vinh cho rằng “không chỉ bổ sung giáo viên phổ thông mà có thể để học sinh tham gia quá trình viết sách, thẩm định” bởi nhiều nước phát triển đã thực thi phương pháp này một cách bình thường. Bởi nếu giáo viên phổ thông và học sinh phải đứng ngoài cuộc thì tình trạng chương trình - SGK xa rời hoạt động dạy học, thực tiễn dạy học vẫn “không có gì là lạ”.
Trên thực tế, hội đồng thẩm định SGK trước đây đã có giáo viên phổ thông tham gia. Nhưng như PGS Nghiêm Đình Vỳ tiết lộ “có những giáo viên ngồi trong hội đồng thẩm định nhưng không hề có ý kiến, đề xuất gì cả. Ai hỏi gì cũng gật, cũng đồng ý”. Có lẽ bởi sự tham gia của những giáo viên phổ thông như thế chỉ mang tính cơ cấu cho đủ thành phần, hoặc việc chọn giáo viên không chuẩn, hoặc cách điều hành khiến giáo viên lo ngại không dám có tiếng nói phản biện hoặc biết có nói cũng chẳng được tiếp thu...
Khi đã mở hết vấn đề để thảo luận thì cũng dễ tạo cơ hội cho những sáng kiến xuất hiện, từ việc soạn các tài liệu khác đi kèm SGK đến thực hiện các tài liệu tra cứu tương tự atlat địa lý cho môn địa, hay thực hiện các bộ CD, VCD đi kèm SGK... Vấn đề là cánh cửa vào không gian biên soạn SGK được mở ra cho nhiều người, nhiều tổ chức khác nhau và sự cạnh tranh sẽ giúp làm bật lên những bộ sách ưu tú.
4 giải pháp về cấu trúc SGK Lịch sử bậc trung học:
- Giải pháp 1: chương trình phân bổ theo đường thẳng, đặt trọng tâm lịch sử cổ trung đại vào cấp THCS, lịch sử cận hiện đại vào THPT.
- Giải pháp 2: chương trình sẽ đi từ cổ đại đến hiện đại theo vòng tròn đồng tâm theo hai hướng tiếp cận khác nhau. THCS tiếp cận ở góc độ lịch sử văn minh thế giới và văn hóa Việt Nam. THPT tiếp cận ở góc độ lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội thế giới và Việt Nam.
- Giải pháp 3: chương trình THCS đặt trọng tâm vào lịch sử dân tộc trên nền lịch sử thế giới.
- Giải pháp 4: giải quyết cơ bản chương trình lịch sử thế giới và Việt Nam ở THCS, ở bậc THPT chỉ biên soạn SGK theo các chuyên đề.
GS Vũ Dương Ninh
(ĐH Quốc gia Hà Nội)
TRỊNH VĨNH HÀ

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Sau 2015, bậc THPT chỉ còn 7 môn học?

Sau 2015, bậc THPT chỉ còn 7 môn học?


Theo đề xuất, sách giáo khoa sau năm 2015 thay đổi bởi sự tích hợp. Bậc THPT có thể giảm môn học xuống 7, nhưng khối lượng kiến thức giảm hay không lại là câu chuyện khác.

Hiện nay thực trạng giáo giục Việt Nam còn nhiều yếu điểm nghiên trọng, đặc biệt về vấn đề sách giáo khoa. Trong Hội thảo quốc tế về xây dựng, phát triển chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015, các chuyên gia giáo dục rất chú trọng đến việc thảo luận, để tìm ra con đường đi của chương trình và sách giáo khoa Việt Nam sau 2015.
Liệu việc gộp các môn học có giúp học sinh giảm tải được kiến thức?
SGK tích hợp ra đời?
Một trong những nội dung quan trọng nhận được nhiều ý kiến bàn luận sôi nổi của các chuyên gia trong hội thảo đó là chương trình, sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015 có sẽ tăng cường các môn học tích hợp.
GS Đinh Quang Báo trong bài tham luận của mình đã phân tích: Giáo dục tích hợp trong chương trình này không đơn giản coi là một phương pháp dạy học, mà là hình thành ở học sinh nội dung tri thức, năng lực tích hợp khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề khoa học hay vấn đề thực tiễn, đời sống.
Giáo sư đưa ra nhận định có thể sẽ tích hợp môn Lịch sử, Giáo dục Công dân và Địa lý thành môn khoa học xã hội; hay tích hợp các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học trở thành môn khoa học tự nhiên. Việc làm này không được coi là tăng tải và cũng không được làm quá tải chương trình.
Mặc dù vậy, quan điểm này nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ phía các chuyên gia tham dự Hội thảo.
Cô Đỗ Thị Minh Đức (Khoa Địa lý - ĐH Sư phạm Hà Nội) không đồng tình với cách làm trên và đưa ra những ví dụ thực tế  các giáo viên giảng dạy phổ thông ở các quốc gia khác như Mỹ, Hàn Quốc, Singapore, họ chỉ mong được ra khỏi tích hợp.
Theo cô, áp dụng mô hình này, cả giáo viên và học sinh đều rất mệt mỏi: “Tôi cho rằng kiến thức của riêng môn Địa lý đã rất dài, rất nhiều, như vậy mà còn phải dạy tích hợp thêm môn Sử, Giáo dục công dân nữa sẽ rất đau khổ”.
Cô Đỗ Thị Minh Đức cũng rất lo lắng liệu rằng môn Địa lý có bị tích hợp không và đề nghị không nên làm.
Ngoài ra, theo GS Đinh Quang Báo (thành viên Ban soạn thảo Đề án Cải tiến nội dung chương trình, sách giáo khoa) chia sẻ: “Sau năm 2015, hệ thống chương trình giáo dục phổ thông sẽ giảm số môn học bắt buộc, tăng số môn học tự chọn”.
Mục tiêu của dự thảo này là không phải giảm tải, cắt giảm chương trình đơn thuần mà giảm để tích hợp tốt hơn. Học sinh thu nạp được lượng tri thức rộng hơn, sâu hơn, nhiều hơn.
Cụ thể: Cấp Tiểu học hiện hành có 11 môn học và 3 hoạt động giáo dục, sau năm 2015 có 5 môn học và 4 hoạt động giáo dục; cấp THCS hiện hành có 13 môn học và 4 hoạt động giáo dục, sau năm 2015 có 10 môn học và 3 hoạt động giáo dục.
Đối với lớp 10 của THPT hiện hành có 13 môn học và 5 hoạt động giáo dục, sau năm 2015 có 11 môn học với 2 hoặc 3 chủ đề tự chọn và 3 hoạt động giáo dục, lớp 11 và lớp 12 hiện hành có 13 môn học với 5 hoạt động giáo dục, sau năm 2015 còn 4 môn học (Ngữ văn, Toán, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ) và 3 môn học tự chọn bắt buộc, 3 hoạt động giáo dục.
Chương trình và SGK tập trung phát triển năng lực của học sinh
Về vấn đề này, các ý kiến đưa ra tại hội thảo đều đống ý nên thay đổi chương trình và sách giáo khoa theo hướng phát triển  năng lực của học sinh.
GS Đinh Quang Báo cho biết: Giai đoạn sau 2015 theo định hướng phát triển năng lực, người học cần phải được trang bị năng lực học tập chung, cơ bản như năng lực tư duy; năng lực thu thập (tìm kiếm, tổ chức), xử lý thông tin; năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; năng lực giao tiếp; năng lực hợp tác; năng lực tự quản lý và phát triển bản thân.
Ông Đỗ Đình Hoàn (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) cho rằng giáo dục ở phổ thông sau 2015 cần cân đối giữa “dạy chữ” và “dạy người”; trên cơ sở đó tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu phát triển năng lực cá nhân của học sinh.
Tuy nhiên, thay đổi chương trình và sách giáo khoa theo hướng phát triển năng lực cần phải dựa trên các tiêu chí nào? Bởi mỗi môi trường giáo dục lại có những đặc điểm riêng và mỗi học sinh lại cần trạng bị các các năng lực riêng biệt.
Ông Đỗ Tiến Đạt - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho rằng: "Khi xây dựng chương trình GDPT, cần xây dựng chuẩn của từng môn học (xuyên suốt theo chiều dọc từ lớp dưới đến lớp trên) và chuẩn theo từng lĩnh vực, từng nhóm môn học có trong mỗi lớp học".
"Ngoài ra, nhà trường không thể đáp ứng tất cả mọi nhu cầu của cá nhân người học, của gia đình và xã hội, chỉ có thể cung cấp cho người học những tri thức nền tảng của học vấn phổ thông (hạt nhân của học vấn phổ thông). Do đó, cần góp phần xác định hạt nhân của học vấn phổ thông, xác định những lĩnh vực học tập cốt lõi", ông Đạt phân tích.
Chia sẻ tại buổi hội thảo, GS Nguyễn Viết Thịnh (ĐH Sư phạm Hà Nội) lại cho rằng: “Thực tế nhiều năm qua các môn học đã được thiết kế dựa trên năng lực học sinh như tiếng Anh, thể dục, nghệ thuật. Muốn theo những quốc gia như Singapore, dạy giáo trình phát triển năng lực cho học sinh không đơn giản bởi điều kiện giáo viên, cơ sở vật chất chưa cho phép”.
Còn theo GS Đinh Quang Báo, chương trình và sách giáo khoa Việt Nam nên thay đổi theo hướng Bộ GD&ĐT sẽ xây dựng một chương trình chuẩn, còn học sách giáo khoa nào do chính giáo viên và học sinh lựa chọn, miễn sao đạt được yêu cầu mà Bộ đưa ra.
AN HOÀNG
Theo Infonet