Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHAI THÁC HIỆU QUẢ LƯỢC ĐỒ GIÁO KHOA LỊCH SỬ VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN


MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH  KHAI THÁC HIỆU QUẢ LƯỢC ĐỒ
 GIÁO KHOA LỊCH SỬ VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

 TS. Nguyễn Mạnh Hưởng
Khoa Lịch sử, Trường ĐHSP Hà Nội

1. Kênh hình (KH) hỗ trợ dạy học (DH) nói chung, môn Lịch sử (LS) ở trường phổ thông nói riêng là công cụ, phương tiện chứa đựng, chuyển tải lượng thông tin tới giáo viên (GV) trong quá trình giảng dạy và là nguồn tri thức phong phú đa dạng, nhằm phát triển trí tuệ, nâng cao năng lực nhận thức cho học sinh (HS). Sử kênh hình hiệu quả không chỉ góp phần quan trọng vào đổi mới phương pháp dạy – học của thầy và trò, mà còn chống lại việc “dạy chay”, “học chay”, một tình trạng khá phổ biến trong DHLS ở nhiều trường phổ thông hiện nay.
Theo chức năng và mục đích sử dụng, các nhà giáo dục và tác giả viết sách giáo khoa (SGK) LS đã chia làm 4 loại KH chủ yếu: KH dùng để cụ thể hóa nội dung một sự kiện LS quan trọng trong bài học (Cuộc tấn công Cung điện Mùa Đông trong Cách mạng tháng Mười Nga đêm 25/10/1917, Hồng quân Liên Xô cắm cờ chiến thắng trên nóc nhà Quốc hội Đức ngày 30/4/1945,…); KH có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho HS (thường là các tranh ảnh tư liệu LS); KH vừa cung cấp thông tin, vừa minh họa cho kênh chữ trong SGK, thường kèm theo một số thông tin bên cạnh để HS tự đọc và tìm hiểu (Các nước đế quốc xâu xé Trung Quốc, lạm phát ở Đức – Trẻ em làm diều bằng những đồng mác mất giá vào đầu năm 1920,…); KH dùng để rèn luyện kĩ năng thực hành, kiểm tra kiến thức HS (Lược đồ về sự bành trướng của đế quốc Nhật Bản cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX,…) [1]. Dù là loại KH nào, chúng đều có đặc điểm chung là phải phản ánh đúng đối tượng nghiên cứu, phù hợp với nội dung trình bày ở “kênh chữ” (bài viết) trong SGK, không có những thông tin sai lệch về mặt khoa học, đảm bảo tính thẩm mĩ, mang tính giáo dục và có tác dụng phát triển trí tuệ đối với HS. Mặt khác, để thuận tiện cho GV nghiên cứu bài viết trong SGK và HS chuẩn bị bài học ở nhà, học tập trên lớp, các KHLS bao giờ cũng được đặt cạnh ngay phần “kênh chữ”, có nội dung tương ứng, có bố cục cân đối và được đánh số thứ tự từ hình 1 cho đến hình cuối cùng.
Lược đồ giáo khoa LS là một dạng của KH, thuộc loại phương tiện trực quan quy ước chiếm tỉ lệ nhiều thứ hai trong hệ thống KH hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy – học ở trường phổ thông (bên cạnh tranh ảnh LS chiếm đa số). Tất cả các loại lược đồ dù phản ánh về yếu tố địa lí, quân sự, chính trị hay kinh tế - xã hội nếu dùng trong nhà trường, trong hệ thống giáo dục quốc dân đều được gọi là lược đồ giáo khoa. Từ những đặc trưng của quá trình học tập LS (HS không trực tiếp quan sát được các sự kiện đã “từng tồn tại” nhưng nay “không hiện có”), việc sử dụng lược đồ giáo khoa sẽ góp phần tích cực vào tạo biểu tượng, hình thành khái niệm cho HS, nhất là những lược đồ LS có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin (CNTT). Bởi vì, theo các chuyên gia giáo dục, nếu cứ áp dụng phương pháp (PP) DH truyền thống (thầy đọc, trò chép) thì 90% tri thức của HS được tiếp nhận qua tai, 10% qua mắt sau một thời gian ngắn sẽ rơi vào tâm trạng mệt mỏi, giảm sự chú ý [2], nhưng nếu các em vừa được nghe, vừa được nhìn thông qua hình ảnh, kết hợp với các hoạt động (tức là huy động cùng một lúc nhiều giác quan) thì kết quả ghi nhớ kiến thức của HS đạt hơn 90% [3].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc sử dụng lược đồ giáo khoa điện tử ở trường phổ thông còn nhiều bất cập. Không ít GV khi sử dụng chủ yếu chỉ “kích chuột” để giới thiệu, minh họa cho bài giảng; có GV sử dụng như một bài thuyết trình, diễn giảng, không chú ý phát huy tính tích cực nhận thức của HS; bên cạnh đó cũng có GV cố gắng kết hợp PP đặt câu hỏi và trả lời, trao đổi và đàm thoại, nhưng lại lúng túng trong các bước và PP khai thác, còn lạm dụng phương tiện kĩ thuật hiện đại,… nên hiệu quả không cao.
2. Xuất phát từ góc độ của người nghiên cứu về lí luận DH bộ môn và thực tiễn DHLS ở trường phổ thông Nguyễn Tất Thành – Trường ĐHSP Hà Nội trong nhiều năm, chúng tôi xin chia sẻ một số biện pháp hướng dẫn học sinh (HS) khai thác hiệu quả các lược đồ giáo khoa LS với sự hỗ trợ của CNTT.
Trước hết cần khẳng định rằng, DH nói chung, môn LS ở trường phổ thông nói riêng là một quá trình sư phạm phức tạp. Quá trình ấy có sự tham gia cùng một lúc của nhiều yếu tố: mục tiêu DH, nội dung, PPDH, thiết bị - phương tiện DH, hình thức tổ chức, kiểm tra đánh giá,… Các yếu tố trên có vai trò, vị trí nhất định trong quá trình DH, có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời. Chất lượng DH chỉ có thể được nâng lên khi có sự tham gia tích cực của các yếu tố đó, nếu yếu tố nào thiếu, lạc hậu, tất yếu sẽ tác động và ảnh hưởng đến chất lượng bộ môn. Trong các yếu tố của quá trình DH nói trên, hoạt động dạy – học của thầy và trò, PP dạy của thầy và PP học của trò có vai trò quyết định nhất, nhưng phải dựa trên nền tảng của “chiếc cầu nối” là đồ dùng trực quan.
Thứ hai, sẽ không có một PP sử dụng chung cho tất cả các loại lược đồ giáo khoa điện tử, cũng như các loại KHLS. Việc hiểu rõ vai trò, chức năng của từng loại KH sẽ giúp GV xác định, lựa chọn đúng phương tiện và PP sử dụng trong mỗi bài học. Tuy nhiên, GV cần lưu ý đến tính cơ bản, hình ảnh và tính vừa sức đối với HS. Sử dụng lược đồ giáo khoa điện tử trong DHLS phải phản ánh đúng đối tượng, phù hợp với nội dung kiến thức, không có thông tin sai lệch về mặt khoa học, hoặc làm phân tán sự tập trung suy nghĩ của HS về sự kiện trong bài, nếu hình ảnh được đưa lên màn hình PowerPoint phải thật sinh động, có màu sắc hài hòa, kèm theo lời chú thích rõ ràng,...
Thứ ba, vận dụng linh hoạt các bước và thao tác hướng dẫn HS khai thác lược đồ giáo khoa LS với sự hỗ trợ của CNTT:
2.1. Chuẩn bị ở nhà (gắn liền với quá trình soạn giáo án). Trước tiên, giáo viên (GV) nghiên cứu bài viết trong SGK để xác định mục đích sử dụng, kiến thức cơ bản, lựa chọn lược đồ chuẩn xác,…. Trên cơ sở đó, tìm hiểu nội dung kiến thức LS “ẩn” trong mỗi lược đồ, gồm hoàn cảnh địa lí (đặc điểm địa hình, vùng lãnh thổ,…) và kiến thức LS, cũng như kí hiệu quy ước (hướng tấn công, rút lui,….). Kiến thức LS “ẩn” trong mỗi lược đồ ít nhiều đã được bài viết trong SGK nhắc đến, thường là diễn biến của chiến dịch, khởi nghĩa,…. Đây là một phần kiến thức cơ bản của bài học, nên GV cần đọc kĩ, kết hợp các nguồn tài liệu tham khảo khác để xây dựng bài tường thuật, miêu tả, hoặc lược thuật, giúp HS có biểu tượng và hiểu rõ hơn sự kiện. Tìm hiểu nội dung LS trên lược đồ sẽ giúp GV định hướng được PP sử dụng, dự kiến số lượng câu hỏi, tình huống sư phạm khi DH trên lớp.
2.2. Sử dụng trên lớp (kết hợp tổ chức cho HS nghiên cứu kiến thức mới). Khi dạy đến nội dung cần khai thác, GV trình chiếu lược đồ, dùng bút chỉ KH (hoặc tia laze) hướng dẫn HS khai thác thông qua các PP đặc trưng như tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm,… Các bước và thao tác như sau:
Một, GV giới thiệu khái quát lược đồ (theo đường chỉ kim đồng hồ), tỉ lệ và kí hiệu cơ bản ở phần “Chú giải” (hướng tiến công của địch, nơi quân địch nhảy dù,…). Công việc này có tác dụng định hướng và kích thích sự tò mò, chú ý của HS vào chủ đề, hình thành động cơ tích cực tìm hiểu kiến thức.
Hai, hướng sự chú ý của HS vào chi tiết quan trọng trên lược đồ, nêu câu hỏi gợi mở. Nếu là lược đồ LS về trận đánh, GV nên cho các em tìm hiểu bài viết trong SGK, nhấn mạnh những ý chính về diễn biến, rồi đưa ra câu hỏi gợi mở để HS tìm hiểu bản chất và ý nghĩa sự kiện, không bị phân tán tư tưởng. HS suy nghĩ và trả lời câu hỏi theo gợi ý, các bạn trong lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến.
Ba, GV nhận xét, trình bày và chốt lại vấn đề để HS ghi ý chính. Tuy nhiên, chúng ta không nên rập khuôn, máy móc trong quá trình hướng dẫn HS khai thác lược đồ. Trong một số trường hợp, GV có thể kết hợp nêu câu hỏi gợi mở, HS trả lời và GV nhận xét, trình bày sự kiện ngay. GV cần tránh việc lạm dụng kĩ thuật như tiếng động, âm thanh phức tạp, hoặc màu sắc lòe loẹt vì chúng dễ làm phân tán tư tưởng HS. Khi trình bày lược đồ cần lưu ý: nếu chỉ sông phải từ thượng nguồn xuống hạ nguồn, chỉ hướng phải nói rõ hướng Nam, Bắc, tây Bắc, tây Nam; nếu chỉ phạm vi quân địch chiếm đóng, vùng giải phóng phải theo đường chu vi,… tránh dùng từ chung chung để HS không bị “hiện đại hóa” LS.
Cuối cùng, để nâng cao hiệu quả việc sử dụng lược đồ giáo khoa điện tử môn LS, GV cần phải kết hợp chặt chẽ giữa câu hỏi với ngôn ngữ diễn đạt. Nếu lời nói của GV trong sáng, rõ ràng và truyền cảm sẽ biểu thị được cảm xúc của người trong cuộc. Ví như, khi tường thuật về diễn biến của chiến dịch LS Điện Biên Phủ năm 1954, giọng của GV phải hào hùng, đanh thép, có khí thế tiến công thì việc giáo dục HS mới phát huy tác dụng.
2.3. Kiểm tra kết quả HS lĩnh hội kiến thức. Ở bước này, GV yêu cầu HS khái quát lại nội dung kiến thức trên lược đồ theo ngôn ngữ và cách hiểu của mình, nhằm rèn luyện các kĩ năng ghi nhớ, nhận diện LS. Sau cùng, GV chuyển sang nội dung khác để tránh phân tán tư tưởng, mất sự tập trung của người học.
3. Thể hiện những lí luận vừa trên, chúng tôi lấy ví dụ về hướng dẫn HS khai thác lược đồ “Chiến thắng Bạch Đằng năm 938” khi dạy nô%3ḅi dung “Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938”, (Bài 16. Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, SGKLS 10, chương trình chuẩn). Lược đồ thiết kế trên phần mềm flash, khi sử dụng có sự hỗ trợ của máy vi tính và projector. Khi đã xác định mục tiêu, kiến thức cơ bản và xây dựng lược đồ trên phần mềm viloet, chúng tôi hướng dẫn HS khai thác như sau:
Đầu tiên, CNTT được GV sử dụng hỗ trợ cho HS quan sát, nhận biết kí hiệu quy ước trên lược đồ: nơi quân ta phục kích, vị trí Ngô Quyền cho quân và dân ta đóng bãi cọc ngầm, đường tiến công của quân địch và quân ta, thủy quân ta đánh nhử, thuyền của Hoằng Tháo và chủ tướng Ngô Quyền. Khi HS đã nhận biết các kí hiệu quan trọng, GV yêu cầu các em tìm hiểu SGK, kết hợp quan sát hình để hiểu nghệ thuật đánh giặc của Ngô Quyền. GV nêu câu hỏi gợi mở: Khi quân Nam Hán chuẩn bị kéo vào xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã thực hiện kế sách gì? Lúc thuỷ quân của Hoằng Tháo kéo đến cửa biển Bạch Đằng, Ngô Quyền cho quân  ra nhử và đánh địch như thế nào? Kết quả của trận thuỷ chiến ra sao?
HS tìm hiểu SGK, suy nghĩ và trả lời xong, GV nhận xét rồi vận dụng linh hoạt các PP, thao tác sư phạm để tường thuật kết hợp với miêu tả trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Lúc này, CNTT vừa là đồ dùng trực quan hiện đại, vừa là nguồn kiến thức và minh họa cho sự kiện đang học. Các đối tượng hiệu ứng lần lượt được xuất hiện theo trình tự và chủ định của GV: nhân dân ta chặt cây, đóng cọc ở trận địa, quân ta mai phục, thủy triều lên xuống, quân ta ra đánh nhử rồi giả vờ thua chạy,… kèm theo hình ảnh minh họa sinh động (Hình dưới):
                 
“Sông Bạch Đằng có tên nôm là sông Rừng, vì hai bên bờ sông toàn là rừng rậm. Hạ lưu sông thấp, độ dốc không cao nên ảnh hưởng của thuỷ triều lên xuống rất mạnh, chênh nhau đến 3m. Khi thủy triều lên, lòng sông rộng mênh mông đến cả nghìn mét, sâu tới chục mét. Biết rõ quân địch sẽ kéo vào nước ta theo đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền liền huy động cho quân, dân lên rừng chặt gỗ, đẽo nhọn đầu và bịt sắt, đem đóng xuống lòng sông tại những nơi hiểm yếu. Số cọc đóng xuống lòng sông lên tới hàng nghìn chiếc. Khi nước triều lên, bãi cọc chìm trong biển nước mênh mông. Phía trên bãi cọc ngầm, Ngô Quyền bố trí lực lượng thuỷ binh ẩn nấp hai bên bờ. Nhiều thuyền được giấu kín trong các bụi lau sậy chờ đợi. Hàng ngàn quân bộ được trang bị cung nỏ sẵn sàng, ngày đêm mai phục.  Ngô Quyền đích thân ra trận.
Vào một ngày mưa rét giữa mùa đông năm 938, Lưu Hoằng Tháo cầm đầu thuỷ quân Nam Hán tiến vào cửa sông Bạch Đằng đánh chiếm nước ta. Đợi cho nước thủy triều lên ngập hết trận địa bãi cọc, Ngô Quyền cho một số thuyền nhỏ do tướng Nguyễn Tất Tố chỉ huy kéo ra đánh nhử địch, rồi vờ thua rút chạy. Hoằng Tháo hăm hở thúc quân đuổi theo, vượt qua trận địa bãi cọc ngầm của ta mà không biết. 
Khi nước thuỷ triều rút, Ngô Quyền ra lệnh phản kích. Những mũi tên từ các vách đá vun vút lao ra như mưa, hàng trăm thuyền của ta cùng bất ngờ xuất hiện. Quân giặc hoảng hốt quay đầu tháo chạy. Ra đến gần cửa sông, đúng lúc nước triều rút mạnh. Bãi cọc ngầm nhô lên. Quân ta dồn sức tấn công. Quân từ phía thượng lưu đánh xuống, quân mai phục từ hai bên bờ sông và quân thuỷ từ các sông nhánh xông ra đánh tạt ngang. 
                          
                                               Tranh vẽ trận thủy chiến trên Sông Bạch Đằng năm 938
Đội hình thuyền của địch rối loạn, xô vào nhau, va phải bãi cọc ngầm bị thủng vỡ, đắm rất nhiều. Thuyền của địch không sao thoát ra biển được. Quân địch bỏ cả chèo lái, nhảy xuống sông, phần bị giết, phần chết đuối, thiệt hại quá nửa. Hoằng Tháo cũng bỏ mạng tại trận. Thất bại nặng nề của đạo thuỷ quân Hoằng Tháo đã làm cho vua Nam Hán kinh hoàng, chỉ biết thương khóc con trai và hạ lệnh rút quân tiếp ứng, hoàn toàn bỏ mộng xâm lược nước ta” [4].
Kết thúc phần tường thuật và miêu tả, GV đặt câu hỏi: Em có nhận xét gì về nghệ thuật đánh giặc của Ngô Quyền? Tại sao nhà sử học Ngô Thì Sĩ ở thế kỷ XVIII lại đưa ra lời nhận định: “Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc thống?”. HS trả lời xong, GV chốt lại: Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 thể hiện nghệ thuật độc đáo, sáng tạo của Ngô Quyền đã biết lợi dụng thiên thời, địa lợi và  nhân hoà. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã chấm dứt hơn 1.000 năm nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc thống trị, mở ra một thời đại mới - thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta.
Ví dụ về các biện pháp hướng dẫn HS khai thác lược đồ giáo khoa điện tử như trên thể hiện PPDH tích cực. Trước đây, để tạo biểu tượng cho HS về hoàn cảnh địa lí và diễn biến của chiến thắng Bạch Đằng năm 938, GV chủ yếu dùng lược đồ treo tường hoặc trong SGK. Những lược đồ này rất hạn chế về tính trực quan, thẩm mĩ (do có nhiều kí hiệu tượng trưng, luôn ở dạng “tĩnh”,…), khi sử dụng GV mất thời gian để tìm vị trí treo và cất lược đồ, không còn yếu tố bất ngờ,… Những hạn chế trên đều được khắc phục nhờ khai thác ưu điểm của CNTT. Trên lược đồ, GV có thể liên kết hình ảnh tượng trưng, tạo hiệu ứng sinh động về thủy triều lên xuống, thuyền chiến của giặc xuất hiện,… theo lôgic bài tường thuật và ý tưởng sư phạm. Vì thế, khi quan sát lược đồ, HS vừa có biểu tượng về sự kiện, vừa khắc sâu, nhớ lâu kiến thức, hiểu được mối quan hệ giữa các yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa, cũng như nghệ thuật quân sự đánh giặc của Ngô Quyền.
                                                                         *             * 
                                                                                 *
Ứng dụng CNTT để hướng dẫn HS khai thác lược đồ giáo khoa LS sẽ góp phần quan trọng vào nâng cao hiệu quả bài học, nhưng “CNTT là đa năng, không phải vạn năng”LS không phải là một chuỗi các sự kiện mà người viết sử ghi lại, rồi người dạy sử đọc lại và người học sử lại học thuộc lòng” (Phạm Văn Đồng) [5]. GV cần phải chủ động, linh hoạt, kết hợp với các PPDH khác, giúp HS thêm say mê, hứng thú, yêu thích học tập LS./.


Tài liệu tham khảo

1.    Phan Ngọc Liên (Chủ biên). Phương pháp dạy học lịch sử  (tập 1 và 2). Nxb ĐHSP. HN, 2002, tr.113.
2.    Phan Ngọc Liên. Lịch sử và giáo dục lịch sử. Nxb Chính trị Quốc gia. HN, 2003, tr 455.
3.    The training of trainers program 2002. Block one course materials. The Viet Nam - Australia training project the VAT project, page 11.
4.    Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGKLS lớp 10. Nxb Giáo dục. HN, 2009, tr.109.
5.    Dẫn theo: Phan Ngọc Liên (Chủ biên). Nhập môn sử học. Nxb ĐHSP. HN, 2006, tr. 168.
6.    Nguyễn Mạnh Hưởng – Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả các đoạn phim tài liệu trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Tạp chí Giáo dục, số 258 (3/2011), tr.38 - 40.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét