Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

“Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử ở nhà trường phổ thông”


I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
          Trong thời gian gần đây, các cơ quan truyền thông đang nêu lên một thực trạng mà cả xã hội quan tâm, đó là sự xuống cấp của bộ môn lịch sử  trong ngành giáo dục: Thái độ thờ ơ của học sinh đối với môn lịch sử và kết quả trong các kì tuyển sinh quá thấp, hàng ngàn bài thi môn lịch sử của học sinh không có điểm (điểm 0), những bài thi “cười ra nước mắt”... Thực trạng đó, khiến tôi suy nghĩ nhiều, làm sao để khắc phục tình trạng đó và nâng cao nhận thức, kết quả học tập môn lịch sử.
          Qua kinh nghiệm công tác giảng dạy môn lịch sử và tìm hiểu thực tế, tôi mạnh dạn quyết định viết đề tài:  “Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử  ở nhà trường phổ thông”, nhằm tạo cảm hứng học tập cho học sinh, có biện pháp giúp đỡ các em phát triển kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và vị trí của môn lịch sử trong xã hội.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tên đề tài đã nói rõ phần nào về đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đề tài trình bày những vấn đề về vai trò của giáo viên trong dạy học môn lịch sử và những biện pháp giúp học sinh phát triển kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử. Người giáo viên phải xác định được đối tượng người học và tìm hiểu cũng như nắm bắt, phân tích được thực trạng để từ đó có những cách thức, biện pháp trong đổi mới phương pháp dạy học, tránh nhàm chán trong tiết học, tạo hứng thú học tập bộ môn. Ngoài ra đề tài còn đề cập một số cách thức biện pháp bồi dưỡng phát triển kĩ năng tự học và dễ dàng ghi nhớ kiến thức lịch sử.
          3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề - đề tài, một sự vật hiện tượng chúng ta cần thực hiện nhiều phương pháp, trong đề tài này tôi cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Tìm hiểu, điều tra thực tế,  thống kê, phân tích, đánh giá…
Những phương pháp này đã góp phần rất lớn cho tôi hoàn thành đề tài này.
          II. NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG
1.1. Thuận lợi
          Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội người giáo viên cũng như học sinh có điều kiện tiếp thu nhiều nguồn thông tin truyền hình báo chí, Internet, các tư liệu lịch sử phong phú, đa dạng và các phương tiện bổ trợ cho công tác dạy và học.
          Trong quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là phía nhà trường đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người giáo viên hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho học sinh.
Đa số học sinh, phụ huynh cũng thấy được tầm quan trọng của việc học tập để phục vụ cho tương lai, cho nên 1 số học sinh cũng có ý thức cao trong việc học tập và phụ huynh cũng lo lắng quan tâm đến việc học của con cái nhiều hơn.
1.2. Khó khăn
          Cùng với những thuận lợi như đã nói ở trên, thì trong công tác giảng dạy tôi cũng nhận thấy được nhiều khó khăn-bất cập, nguyên nhân dẫn đến chất lượng của bộ môn lịch sử ngày càng sa sút.
    Tuy nhiên, trong đề tài này tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn một số nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng đó.
Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta còn xem nhẹ môn học lịch sử, coi môn lịch sử là “môn phụ”- cho nên học sinh chưa thật sự ý thức trong việc học tập môn học này.
Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ môn LS còn nhiều vấn đề tồn tại: chúng ta thấy rằng từ sau đổi mới chương trình và sách giáo khoa được áp dụng từ năm học 2006-2007 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít... dẫn đến phương pháp giảng dạy thiên về đọc chép... mà ít chú ý đến rèn luyện phát triển khả năng tư duy độc lập của học sinh.
Thứ ba, nhiều giáo viên bộ môn lịch chưa thập sự tâm huyết với nghề hoặc năng lực chuyên môn còn hạn chế...
          Thứ tư, từ những nguyên nhân dẫn đến học sinh “ngán” - không hứng  thú với môn lịch sử, học lịch sử chỉ là để đối phó trong thi cử, nên đa số học sinh, học lịch sử theo phương pháp “thuộc lòng” “máy móc”... và còn nhiều nguyên nhân khác nữa.
          Chính những vấn đề đó  mà có những bài thi của học sinh “cười ra nước mắt”, những bài thi điểm Zéro (0)...
2. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1. Khái niệm
2.1.1. Khái niệm kỹ năng:
Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn {Từ điển tiếng Việt}. Có nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Các định nghĩa thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm của mỗi cá nhân . Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng.
Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
2.1.2. Khái niệm tự học:
Người ta cũng có nhiều quan niệm về tự học, có người cho rằng: Tự học là học riêng một mình ? ... Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa  là tự mình học tập hoặc hợp tác với bạn (nhóm) học, không có sự giảng dạy một cách trực tiếp của giáo viên...tự bản thân tìm tòi, lao động bằng tri óc để nắm bắt, hiểu một vấn đề, một sự vật hiện tượng...
Vậy, Tự học là quá trình tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh tri thức.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                 
2.1.3. Khái niệm kỹ năng tự học:
Từ hai khái niệm trên, chúng ta thấy rằng kỹ năng tự học là khả năng làm chủ các hoạt động học tập của bản thân người học một cách đúng đắn khoa học để đạt hiệu quả mong đợi, như  kỹ năng lập được kế hoạch tự học- thời gian địa điểm học hợp lý, kỹ năng đọc sách, nghe giảng, ghi chép bài... người học xác định được mục tiêu, mục đích,  phương pháp học tập một cách hợp lý và đạt hiệu quả cao.
2.1.4. Khái niệm nhớ:
Nhớ là “ghi vào trong trí óc cho khỏi quên” [Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá thông tin, 2001, tr. 524]. Có nhiều nguyên nhân làm người ta nhớ: Lặp đi lặp lại nhiều lần, thấu hiểu vấn đề, có tình cảm, tình yêu, có ấn tượng mạnh...
2.2. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong nhà trường phổ thông
Trong xu thế phát triển của thời đại và công cuộc cải cách giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục hiện nay xác định học sinh là trung tâm, là người chủ động tích cực và sáng tạo, người giáo viên chỉ đóng vai trò là người điều khiển hướng dẫn học sinh học tập...
 Cùng với những bất cập mà tôi đã trình bày ở phần thực trạng về chương trình trình học lịch sử hiện nay (“dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít)...
Chính vì thế mà người giáo viên dạy học môn lịch sử không thể truyền đạt cho học sinh một lượng kiến thức “khổng lồ” được... mà chỉ có một trong hai cách:
-Một là, giáo viên đọc cho học sinh ghi chép toàn bộ kiến thức cho học sinh- theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục ban hành.
-Hai là, giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn học sinh tự học-tự tìm hiểu là chính; chỉ giảng giải phân tích một số nội dung trọng tâm cần thiết.
           Tuy nhiên cách thứ nhất là đi ngược lại với xu thế phát triển của khoa học giáo dục hiện đại và hướng dẫn chỉ đạo của Bộ Giáo dục, vậy nên người giáo viên phải luôn xác định học sinh là trung tâm còn mình là người hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu chiếm lĩnh tri thức. Nhà giáo dục học Usinxki nói rằng: “nhiệm vụ chủ yếu của thầy giáo không phải là truyền đạt kiến thức mà dạy cho học sinh biết suy nghĩ ”.
Như vậy, vấn đề tự học của học sinh là rất quan trọng vì đó là một khâu trong một quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng lực độc lập tư duy của các em trên lớp cũng như ở nhà. Điều này xuất phát từ nguyên lý giáo dục gắn nhà trường với đời sống.
Với việc xác định học sinh là trung tâm, giáo viên là người điều khiển, hướng dẫn học sinh thì người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, đó là người giáo viên phải nắm vững kiến thức của toàn bộ chương trình và phải lập được kế hoạch giảng dạy khoa học mang tính bao quát và cụ thể- đặc biệt là giáo án trong từng tiết dạy...
2.3. Một số lưu ý khi học sinh tự học
          Việc tự học của học sinh là rất quan trọng và đóng vai thành bại kết quả học tập của người học. Tuy nhiên, khi mới áp dụng cách học này học sinh còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và nhiều khi cảm thấy không hiệu quả bằng cách học truyền thống là thầy đọc- trò chép và về nhà chỉ việc học thuộc lòng những gì thầy cô cho ghi tại lớp. Cho nên, trong quá trình tự học, học sinh cần lưu ý một số vấn đề.
- Trước hết, học sinh cần nắm rõ thế nào là tự học; tự học là một chu trình 3 giai đoạn: Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiện- Tự kiểm tra và điều chỉnh. Chu trình này thực chất là con đường phát hiện vấn đề, định hướng cách giải quyết và giải quyết vấn đề học tập.
- Thứ hai, học sinh cần xác định mục tiêu, nội dung  học tập. Mục tiêu là cái đích chúng ta muốn đạt được, từ đó chúng ta mới xác định được nội dung cần học và xây dựng phương pháp học tập. Chỉ khi nào xác định được mục tiêu-mục đích thì học mới hiệu quả.
          - Thứ ba, học sinh cần xây dựng được kế hoạch học tập một cách khoa học rõ ràng và cố gắng thực hiện đúng kế hoạch.
          - Thứ tư, học sinh phải có phương pháp, cách học hiệu quả. Phương pháp đúng đắn là chìa khóa đi tới thành công trong học tập.
          3. BIỆN PHÁP
          Trong đề tài này tôi xin đưa ra một vài biện pháp (phương pháp học tập) giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử.
3.1. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình
          Khi học bài học sinh không nên học nguyên văn trong sách giáo khoa, hoặc nội dung bài học mà giáo viên chép ở lớp... Cách học như vậy mang tính “máy móc” còn gọi là học “thuộc lòng”, dẫn đến nặng nề, khó hiểu và khó nhớ. Để nhớ được kiến thức cơ bản, các em nên kết hợp sách giáo khoa, bài giảng của giáo viên, vở ghi... Trước hết, học sinh cần phải nhớ các phần, mục chính rồi sau tìm xem mỗi phần, mục ... gồm mấy ý chính rồi diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình để học. Học sinh chỉ cần nhớ “ý” chứ không cần thiết nhớ “văn” (có nghĩa học sinh không nhất thiết phải diễn đạt nói và viết) giống hệt như sách giáo khoa hoặc như lời giảng của thầy cô, miễn sao đúng là được).
Ví dụ, khi học diễn biễn một cuộc chiến tranh, một quá trình lịch sử... thì nhất thiết phải nhớ mốc mở đầu, đỉnh cao, kết thúc và một số sự kiện tiêu biểu khác để nhớ. Cụ thể, khi học Cách mạng tư sản Pháp cuối XVIII: Sự kiện mở đầu 14/7/1789 nhân dân Pari nổi dậy phá ngục Baxti; đỉnh cao: 2/6/1793 phái Giacobanh lên nắm quyền; sự kiện thoái trào- kết thúc: 27/7/1794- tháng Técmiđo (tháng Nóng)... Để dễ học dễ nhớ hơn, nội dung này chúng ta có thể sơ đồ hóa kiến thức.
          Ý nghĩa thắng lợi của mỗi cuộc cách mạng lớn, mỗi cuộc kháng chiến lớn thường có ý nghĩa dân tộc và quốc tế, ý nghĩa dân tộc thường có hai ý nhỏ là kết thúc cái gì và mở ra cái gì; ý nghĩa quốc tế cũng có hai ý nhỏ là tác động đến thù và bạn như thế nào. Cụ thể, khi học về ý nghĩa thắng lợi của cuộc mạng tháng Tám 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) hay cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) chúng ta đều nhận thấy những điểm chung như vậy.
Trên cơ sơ các ý cơ bản đã chọn, học sinh tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình. Khi mới học theo phương pháp này học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn như trình bày dài dòng, vấp váp và có khi thiếu chính xác, có thể diễn đạt sai kiến thức... Tuy nhiên, khi đã tập học theo cách này nhiều, thuần thục trở thành kỹ năng thì rất dễ học, dễ nhớ và nhớ lâu. Khi học tập bằng phương pháp này học sinh cũng cần tự tổ chức các buổi học nhóm- chỉ cần hai học sinh truy bài cho nhau để kiểm tra nhau và tự điều chỉnh.
          3.2. Sơ đồ
Trong phương pháp học Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình, học sinh tìm ý cơ bản sau đó có thể  sơ đồ hóa, công thức hóa ... đơn vị kiến thức cho ngắn gọn, đơn giản... tránh gây nhiễu giữa những đơn vị nội dung kiến thức gần giống nhau. Khi sử dụng học bài bằng phương pháp này người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh lập sơ đồ... Những nội dung phức tạp hoặc các giai đoạn lịch sử thì giáo viên có thể cung cấp sẵn cho học sinh rồi hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu và phát biểu...
Ví dụ, bài Các quốc gia cổ đại phương đông- Lịch sử 10, khi dạy về các giai cấp, tầng lớp trong xã hội chúng ta có thể lập sơ đồ:
 Sơ đồ xã hội cổ đại phương Đông
                 




Quan sát sơ đồ học sinh kết hợp sách giáo khoa và lời giảng của giáo viên... học sinh có thể biết được xã hội cổ đại phương Đông phân hóa thành các tầng lớp:
-         Nông dân công xã: là tầng lớp đông đảo nhất và có vai trò to lớn; nhận đất canh tác và nộp tô thuế.
-         Quý tộc: vua, quan, tăng lữ là tầng lớp bóc lột có nhiều của cải và quyền thế.
-         Nô lệ: Số lượng không nhiều, chủ yếu phục vụ, hầu hạ tầng lớp quý tộc.
          Bên cạnh việc lập sơ đồ, công thức chúng ta còn có thể lập dàn ý theo dạng cành cây, lập niên biểu, biểu đồ ....Có thể nói rằng, áp dụng phương pháp dạy học này giúp học sinh có thể độc lập tư duy và từng bước rèn luyện kỹ năng tự học ngày càng hiệu quả hơn.
3.3. So sánh : 
          So sánh cũng là cách học hiệu quả để ghi nhớ kiến thức, trong lịch sử có những đơn vị nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản... Học sinh có thể so sánh về đơn vị nội dung kiến thức, về sự kiện, số liệu, các nhân vật lịch sử, so sánh về thuật ngữ gần giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn khác nhau... so sánh theo cặp phạm trù hoặc lập bảng... và điều đó giúp học sinh tránh tình trạng nhầm lẫn kiến thức trong quá trình học tập. Với cách học này, chúng ta đưa các nội dung kiến thức lại gần với nhau từ đó nhận rõ hai nội dung đơn vị kiến thức đó có điểm gì chung nhất và điểm khác biệt nào cần nhớ rõ, từ đó học sinh có thể học một mà biết được hai và đạt hiệu quả cao hơn.
          Tìm hiểu về đơn vị- nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản, ví dụ: Đường lối cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh (đầu thế kỷ XX), học sinh cần lập bảng so sánh điểm giống nhau và khác nhau về xu hướng cách mạng của hai vị lãnh tụ này. Cụ thể, chúng ta có thể lập bảng như sau:
          Bảng so sánh xu hướng hai xu hướng cách mạng bạo động và cải cách đầu thế kỷ XX
Xu hướng cách mạng
PHAN BỘI CHÂU
Xu hướng bạo động
PHAN CHÂU TRINH
Xu hướng cải cách
Giống nhau
- Xuất phát từ lòng yêu nước, muốn giành độc lập cho quê hương đất nước;
- Dùng sách báo để tuyên truyền thức tỉnh đồng bào
 => Đó là xu hướng cách mạng tiến bộ theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Khác nhau
*Chủ trương


*Phương pháp

-Thành lập Hội Duy tân, phát động phong trào Đông Du, nhờ Nhật giúp đỡ...
-Sử dụng bạo lực cách mạng để đánh thực dân Pháp
- Nhờ Pháp giúp đỡ để khai thông dân trí, phát triển đất nước...

- Tiến hành cải cách duy tân trên các lĩnh vực KT-GD-VH
         
          Trong quá trình học và tự học chúng ta cần có sự so sánh để dễ dàng chiếm lĩnh tri thức; ví dụ: Cương lĩnh chính trị (2/1930) với Luận cương (10/1930); Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) với Hiệp định Pari (27/1/1973), Tổ chức Liên Hợp quốc với tổ chức ASEAN ...
          Học lịch sử có rất nhiều số liệu và ngày tháng khó nhớ, nhưng chúng ta nếu biết vận dụng tìm những điểm chung tương đối và đưa ra so sánh thì một số sự kiện ghi nhớ rất đơn giản. Trong thực tế có rất nhiều đơn vị kiến thức nội dung có mà chúng ta có thể áp dụng đưa vào so sánh để học một cách hiệu quả.
3.4. Sử dụng tranh ảnh, lược đồ-bản đồ:
Sử dụng tranh ảnh, lược đồ thường gây ấn tượng mạnh cho học sinh, ấn tượng mạnh là một trong những nguyên nhân giúp học sinh ghi nhớ kiến thức một cách sâu sắc hơn, là phương tiện dạy và học, là một kênh thông tin hết sức quan trọng, là hình ảnh trực quan sinh động giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập và góp phần rất quan trọng trong việc ghi nhớ kiến thức của học sinh.
 Ví dụ, bức tranh biếm hoạ: “Tình cảnh người nông dân Pháp trước cách mạng” sẽ giúp học sinh nhớ ngay đến nỗi thống khổ của người nông dân Pháp trước cách mạng 1789, đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến bùng nổ cách mạng tư bản Pháp.  Hình ảnh “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp”, sẽ làm học sinh hiểu sâu sắc sự “cảm tử”  anh dũng  hi sinh của các Trung đoàn thủ đô trong những ngày đầu kháng Pháp ở Hà Nội. Sử dựng lược đồ: “Cuộc chiến đấu của ta ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16”, học sinh sẽ dễ dàng nhớ kiến thức và xác định các đô thị: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng...
3.5. Thực hành, luyện tập:
Thực hành luyện tập được ví như chiếc cầu “đưa tri thức chuyển tới năng lực” vì nó không chỉ giúp học sinh hiểu sâu mà còn nhớ lâu kiến thức. Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng nói “Học đi đôi với hành” “lý luận gắn liền với thực tiễn”... Thành ngữ Trung Quốc cũng có câu “Tôi nghe,  thì tôi quên. Tôi thấy, thì tôi nhớ. Tôi làm , thì tôi hiểu ”. Từ “học tập” là gồm hai động từ “học” và “tập” ; “học” là quá trình ở lớp giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức mới, “tập” là thực hành, luyện tập ở nhà của học sinh. Trong đó “tập” bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của học sinh: tập tìm các ý cơ bản, tập diễn đạt, làm bài tập, vẽ lược đồ, sơ đồ, lập bảng so sánh, tìm tài liệu, đọc sách tham khảo, trao đổi với ban... Trong các môn khoa học tự nhiên thì luyện tập là công việc thường xuyên, nhưng trong các môn khoa học xã hội, đặc biệt là môn lịch sử thì rất hiếm, mà có yêu cầu học sinh thì giáo viên cũng không có thời gian để kiểm tra sữa chữa nên cũng chưa thật hiệu quả... Như vậy, học tập thì học sinh cần phải  tự thực hành luyện tập nhiều, đấy là điều tối quan trọng để học sinh nhớ lâu kiến thức, nâng cao hiểu quả học tập.
  Ngoài ra còn nhiều cách ghi nhớ khác nữa như: chuyện kể, bài hát, bài thơ....
4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Qua thực tiễn dạy học lịch sử ở  trường phổ thông, tôi nhận thấy rằng cách học của đa số học sinh trong môn học lịch sử là hết sức thụ động, thầy cô giảng dạy như thế nào là về nhà học thuộc lòng “máy móc” như thế, ít chịu nghiên cứu tìm tòi, dẫn đến những kết quả không mong đợi- học sinh ngày càng ngán học môn lịch sử và kết quả học tập, thi cử ngày càng thấp.  Với tình hình như vậy, trong dạy học tôi đã vận dụng nhiều phương pháp nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng như hướng dẫn đổi mới phương pháp học tập cho học sinh. Qua nghiên cứu tài liệu, học hỏi và rút kinh nghiệm từ bản thân tôi thấy rằng việc tự giác học tập của học sinh là rất quan trọng, đồng thời tự học cũng phải có phương pháp, khi tôi  đưa những phương pháp đã nêu trên hướng dẫn học sinh tự học thì học sinh rất hứng thú và kết quả ngày càng đáng khích lệ.                           
III. KẾT LUẬN
          Có thể nói rằng, việc phát triển kỹ năng tự học cho học sinh đóng vai trò tối quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả học tập, là ngọn đèn lớn soi sáng người đi trong đêm tối. Trong học tập hay bất kỳ một công việc gì đều phải ứng dụng các cách thức phương pháp phù hợp mới dẫn bạn đi đến thành công và mình phải là người chủ động tìm tòi nghiên cứu. Cho nên, học sinh phải luôn phải tự trau dồi kiến thức, tìm kiếm cho mình những phương pháp đúng và bồi dưỡng rèn luyện thuần thục trở thành kỹ năng cơ bản, nhất là “kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử”.
Việc tự học của học sinh phải được tiến hành với sự hứng thú say mê và ý thức trách nhiệm tinh thần lao động cần cù. Trong việc tự học, điều quan trọng đối với học sinh không chỉ là ghi nhớ, nắm vững, hiểu sâu kiến thức mà còn hình thành ở các em tư cách, phẩm chất của người lao động- kiên nhẫn, độc lập, tự tin và sáng tạo.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. “Một số kỹ năng cần thiết dành cho học sinh trung học phổ thông”. NXB GD - Ths: Trần Minh Quốc và Ths: Bùi Ngọc Diệp.
2. “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội nhập quốc tế...” Tiến sĩ Tưởng Phi Ngọ.
3. “Phương pháp dạy học lịch sử”. NXB GD - Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị.
4. “Đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục hiện đại”. NXB ĐHSP Hồ Chí Minh – Lê Vinh Quốc.
5. Lịch Sử 10 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN
6. Lịch Sử 11 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN
7. Lịch Sử 12 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN...


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét