Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

PHƯƠNG PHÁP KỂ CHUYỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN (1946 – 1954)


PHƯƠNG PHÁP KỂ CHUYỆN NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
 (1946 – 1954)
 Mai Thị Ngọc Lệ, THPT Phú Bài - Thừa Thiên Huế
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
    Trong dạy học mục đích của các môn học nói chung và của môn lịch sử nói riêng ở phổ thông điều góp phần đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục chung của Đảng và nhà nước trên cơ sở nội dung của môn học. Vì vậy cũng như các môn học khác, bộ môn lịch sử có nhiệm vụ “Hoàn chỉnh vốn kiến thức ở trình độ kiến thức phổ thông của học sinh về lịch sử để làm cơ sở cho sự hình thành thế giới quan khoa học và đạo đức công nhân dân xã hội chủ nghĩa của lao động mới trên đất nước ta”. Để hoàn thành nhiệm vụ này, bộ môn lịch sử phải cung cấp đầy đủ cho học sinh những tri thức cần thiết về quá trình phát triển hợp quy luật của lịch sử dân tộc và thế giới. Nhưng do đặc điểm của bộ môn lịch sử học sinh không thể trực tiếp “Trực quan sinh động” với sự kiện đã qua, cho nên trong giai đoạn nhận thức cảm tính của các em không thể có cảm giác và tri giác về sự kiện. Vì vậy giáo viên phải tìm cách dạy như thế nào để cho học sinh học sinh cảm thấy thích học lịch sử và có như vậy học lịch sử mới đạt được hiệu quả cao. 
    Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy muốn để cho học sinh hiểu và hứng thú hơn trong việc học lịch sử thì cần phải sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử, giúp học sinh nắm được nhân vật, sự kiện lịch sử một cách cụ thể hơn qua đó để bồi dưỡng nhân cách đạo đức, lí tưởng tốt đẹp cho học sinh. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp và của các em học sinh.

B. NHỮNG VIỆC ĐÃ LÀM VÀ KẾT QUẢ: 

    Tôi đã dạy thử ở một số lớp 12A1, 12A2, 12B1 niên khoá 2011 – 2012, nhận thấy học sinh học hứng thú và hình ảnh nhân vật, sự kiện  lịch sử đã lưu lại rất rõ trong các em học sinh, đặc biệt qua tìm hiểu các nhân vật lịch sử đã giúp cho các em thấy được, hiểu được và tự hào về dân tộc mình, giáo dục cho học sinh về nhân cách đạo đức cách mạng, hình thành lí tưởng cao đẹp cho các em học sinh.


                                                                                                          
C. NỘI DUNG: 
    Việc sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học lịch sử đã kích thích hứng thú tự chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Là công cụ của giáo viên trong việc giúp học sinh nhận thức được kiến thức lịch sử.
  -  Sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học lịch vào bài học sẽ giúp cho học sinh:
      + Giúp các em chú tâm vào bài học.
      + Huy động được vốn kiến thức, những hiểu biết sẵn có của học sinh.  
      + Thu hút học sinh hăng say tìm hiểu.
   - Để giờ học có hiệu quả cao khi sử phương pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học lịch sử trong dạy học lịch sử, giáo viên yêu cầu các em về nhà tự tìm hiểu trước qua sách báo, qua những lời kể lại của ông bà, cha mẹ …cộng thêm sự cung cấp của giao viên sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn và cảm thấy thích học lịch sử hơn.
  Việc sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật trong dạy học trong dạy học lịch sử sẽ giúp các em hiểu vấn đề một cách tập trung nhất mà không rơi vào tình trạng chán nãn khi phải học bộ môn lịch sử.
  
 Ví dụ:
      *Khi dạy bài 18 (Lịch sử 12): NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG  
                               CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950)
          - Ở mục IV.2: “Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950”. Khi trình bày diễn biến về trận Đông Khê (16 - 18/9/1950), giáo viên lồng ghép kể chuyện nhân vật lịch sử: anh hùng La Văn Cầu.         
  Anh hùng La Văn Cầu  sinh năm 1932 trong một gia đình nghèo, dân tộc Tày, tỉnh Cao Bằng. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, được nhiều cán bộ tuyên truyền giác ngộ, anh đã hiểu rõ nguồn gốc sự cực khổ của người nghèo và người dân mất nước, nên hăng hái tham gia vào công cuộc kháng chiến ở quê hương. Với khát khao được cầm súng giết giặc giải phóng đất nước, La Văn Cầu mới 16 tuổi đã khai tăng lên 18 tuổi để được vào bộ đội. Lúc đó là năm 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp vô cùng gian khổ, thiếu thốn. Nhưng niềm vui và ý chí đã giúp anh vượt qua khó khăn, vươn lên rèn luyện thành một chiến sĩ gương mẫu, giàu lòng nhân ái, nên được anh em đồng đội rất quí mến. Anh đã tham gia chiến đấu nhiều trận và lập được nhiều chiến công. Một trong những chiến công  mà từ đó tên tuổi của anh đã đi vào sử sách là Trận đánh đồn Đông Khê lần thứ hai (từ 16 - 18. 9.1950). Trong trận đánh này, anh được phân công chỉ huy tổ bộc phá làm nhiệm vụ phá hàng rào và đánh lô cốt đầu cầu (cửa mở trận đánh). Trong trận đánh, anh bị thương nát tay phải và đã nhờ đồng đội chặt đứt cánh tay ấy cho khỏi vướng rồi tiếp tục đánh bộc phá mở đường cho đơn vị xung phong. Nếu chỉ đọc những dòng chữ ghi tóm tắt chiến công đó thì chúng ta chưa thể hình dung hết được sự ác liệt của trận đánh và chúng ta cũng không thể hiểu hết được khí thế hừng hực của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã được hun đúc trong con người anh, người chiến sĩ mới mười tám tuổi đời và hai tuổi quân. Để thế hệ trẻ hôm nay hiểu được trí thông  minh, lòng dũng cảm và ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, sẵn sàng hi sinh tất cả để giành lại độc lập tự do cho dân tộc của thế hệ cha anh nói chung và của Anh hùng La Văn Cầu nói riêng.
         - Giáo viên có thể trích giới thiệu một phần bản tự thuật của anh La Văn Cầu về trận đánh đồn Đông Khê lần thứ hai được ghi trong “Biên bản Đại hội Toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu” diễn ra tại Việt Bắc từ ngày 01 tháng 5 đến ngày 06 tháng 5 năm 1952, hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Phòng Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 467: “…Tiếp đến Chiến dịch Biên giới. Tôi tham gia trận Đông Khê. Trận này là trận đánh Đông Khê lần thứ hai, tôi làm nhiệm vụ bộc phá viên của đơn vị Đại đội. Trước khi ra mặt trận chúng tôi được lệnh gói bộc phá - lúc đầu vì không có kinh nghiệm nên chúng tôi gói bằng lá tươi và buộc bằng lạt thường, do đó bộc phá nổ không mạnh và hay hỏng - về sau tôi có sáng kiến lấy lá chuối khô bọc bộc phá và buộc bằng lạt nấu nước sôi cho chắc. Bởi thế nên có kết quả.
        Trước khi ra trận tôi họp anh em trong tổ bộc phá để thảo luận về nhiệm vụ. Tôi đưa ra ý kiến là tất cả anh em trong tổ đều phải quyết tâm làm nhiệm vụ đến phút cuối cùng, dù phải hi sinh. Tôi lại bảo “Anh em chúng ta phải cố gắng phá hàng rào và giao thông hào, lô cốt cho thật nhanh và cho đến nơi đến chốn để đỡ xương máu cho anh em xung kích”. Các anh em trong tổ đều đồng ý với tôi và hăng hái hứa cùng nhau làm cho được nhiệm vụ, dù chỉ còn lại một người cũng quyết tâm làm xong nhiệm vụ của tổ.
            Tổ tôi có 5 người do tôi làm tổ trưởng, lần này là lần đầu tiên chúng tôi đánh bộc phá - đơn vị tôi là đơn vị bộc phá đầu tiên.
         Ngày 15 chúng tôi được lệnh xuất phát - chiều 16 đơn vị tôi bố trí sát vị trí Đông Khê. Ban Chỉ huy ra lệnh cho đội bộc phá chúng tôi phải phá cho được đồn to của vị trí. Tổ của tôi tiến lên phá hàng rào trong đêm tối. Nhận thấy bộc phá có ít nên tôi nảy ra sáng kiến lấy mìn của địch giật ở hàng rào dây thép gai phá hàng rào của nó. Chúng tôi lấy được mấy chục quả mìn của địch chôn ở hàng rào, rồi làm nổ mìn và phá được hàng rào của địch. Sau đó, chúng tôi tiến thẳng lên lô cốt. Lúc này, địch bắn xuống như mưa. Tôi hỏi anh em có ai bị thương không. Trong anh em, tôi biết có anh bị thương nhẹ, nhưng anh đó cũng không báo cáo thật, sợ mất tinh thần anh em khác, nên đã giả lời không ai việc gì cả. Thấy tinh thần anh em cao như thế, tôi rất phấn khởi. Tôi hô anh em xung phong. Tiến lên được một quãng thì hai anh trong tổ bị trúng đạn, bị thương nặng, không thể chiến đấu được. Các anh đó nhận thấy không thể tiếp tục theo chúng tôi được nên có bảo ba chúng tôi thế này: “Chúng tôi bị thương nặng không làm được nhiệm vụ nữa. Các anh cố gắng làm xong nhiệm vụ và trả thù cho chúng tôi. Các anh nhớ lời anh Cầu bảo chúng ta trước khi ra đi. Còn một người cũng cứ chiến đấu làm tròn nhiệm vụ đến phút cuối cùng”. Thấy các anh vừa nói vừa khóc, chúng tôi thương hai anh quá. Nhưng nghĩ đến nhiệm vụ, ba chúng tôi lại hăng hái xông lên, nhất quyết làm cho được nhiệm vụ để trả thù cho hai anh. Lúc đó tôi cảm thấy căm thù bọn giặc quá. Chúng tôi tiến lên lô cốt địch, cách lô cốt độ 15 thước thì hai anh bạn đồng đội của tôi bị địch bắn trúng và bị hy sinh. Tôi thấy hai anh bị hy sinh tôi thương quá. Nhân lúc hai anh còn nóng, tôi ôm lấy hai anh hôn. Tôi nghĩ lúc ấy tôi thay mặt Tổ quốc hôn hai anh để cảm ơn hai anh. Hôn xong tôi lại thấy căm thù giặc hơn nữa. Tôi nghĩ phải nhất quyết phải trả thù cho hai anh và làm cho xong nhiệm vụ. Quân địch vẫn bắn ra rất nhiều. Tôi hăng máu xông lên, tìm cách tránh đạn địch, rồi vượt luôn ba giao thông hào - lúc này địch bắn si nhan sáng loáng - chắc hẳn là nó nom thấy bóng tôi nên tôi nghe hô “a-lat-xô Việt Minh”. Tôi vẫn bình tĩnh tiếp tục tiến lên lô cốt - đến gần lô cốt độ 10 thước thì tôi bị trúng đạn liên thanh của địch.
       Đạn bắn trúng cánh tay phải của tôi và trúng vào má bên phải của tôi. Tôi bị ngã và ngất đi trong mấy phút. Tôi tưởng chết, cố hô Hồ Chủ tịch muôn năm, Việt Nam độc lập muôn năm. Khi tỉnh lại, tôi kiểm điểm lại người tôi, thì thấy một bên mình đã tê đi, sờ đến cánh tay phải thì lủng lẳng, má bên phải thì mất. Lúc đó tôi lại nghĩ đến nhiệm vụ của tôi. Tôi vùng dậy, tìm gói bộc phá thì thấy gói đó bị văng đi cách chỗ tôi mấy thước. Quả bộc phá nằm trên miệng giao thông hào chưa rơi xuống. Tôi nghĩ may quá, nếu nó rơi xuống hào thì nổ mất còn gì - tôi đến lấy tay trái nhặt quả bộc phá ôm vào người và tiến vào lô cốt - nhưng trong lúc đi lại tôi thấy cánh tay phải lủng lẳng khó đi quá. Tôi liền nghĩ là phải quay giở xuống tìm một anh bạn nhờ chặt tay đi thì mới làm được nhiệm vụ. Rồi tôi quay xuống ngay. Đến nửa đường tôi gặp anh tiểu đội trưởng tiểu đội xung kích đang tiến lên. Tôi bảo anh chặt hộ tay cho tôi. Anh ngạc nhiên và bảo tôi quay xuống cho y tá băng bó. Tôi nói cho anh rõ ý định của tôi và nhất định yêu cầu anh cứ chặt tay cho tôi để tôi làm xong nhiệm vụ. Anh tiểu đội trưởng lúc đó mới hiểu, bèn lấy mác chặt cái tay bị thương đã gãy. Xong anh xé áo buộc cho tôi. Nhưng anh quên làm ga-rô, nên đi được một quãng tôi thấy máu ở cánh tay phải cứ chảy ra ròng ròng làm ướt đẫm một miếng vải buộc. Về sau miếng vải đó cũng bị tuột ra. Nhưng tôi không để ý đến cánh tay nữa, tôi cũng không biết đau nữa cứ chạy lên con đường cũ. Tôi đến chỗ giấu bộc phá nhặt lấy rồi tiếp tục lên phá lô cốt. Quả bộc phá nặng 12 ki lô nhưng tay trái tôi vẫn đủ sức xách lấy nó. Tôi lại vượt qua mấy giao thông hào. Nhưng tôi nhảy hụt ở giao thông hào thứ nhất, lăn xuống giao thông hào. Tôi lóp ngóp bò lên và tiếp tục tiến vào lô cốt. Qua giao thông hào thứ ba, tôi lại nhảy hụt lần nữa, vì sức tôi đã yếu rồi. Tôi lăn xuống hào rồi lại lóp ngóp bò lên. Tiếng súng liên thanh của địch cứ nổ ran, những lỗ châu mai của nó cứ nhả đạn liên hồi - ở dưới giao thông hào tôi thấy mệt mỏi quá. Nhưng tôi nghĩ lại nhời Ban Chỉ huy dặn phải phá cho bằng được lô cốt này, vì vị trí Đông Khê là vị trí rất quan trọng, nó bảo vệ đường số 4. Lô cốt này nó bắn xuống đường Thất Khê và bắn yểm hộ bốt Cam Vây. Nếu không phá được lô cốt ấy thì quân ta khó tiến. Nghĩ thế, tôi lại thấy hăng, lại xách bộc lôi nhảy lên. Tôi tiến đến gần chân lô cốt. Tôi lấy quả lựu đạn giắt ở bên người, lấy răng rút chốt an toàn, ném vào phía có lỗ châu mai để uy hiếp tinh thần địch. Lựu đạn trúng lỗ châu mai, nổ, nhưng súng liên thanh của địch vẫn nhả đạn ra. Tôi men lại lỗ châu mai, chờ cho địch thay băng đạn. Khi súng địch tạm im không bắn, tôi xông lại, đút quả bộc lôi vào lỗ châu mai. Địch ở trong trông thấy lấy báng súng đẩy ra hai lần. Lần đầu tôi lấy tay đẩy vào nhưng tay tôi yếu không đẩy vào sâu được nên địch lại đẩy ra. Tôi thấy thế nảy ra sáng kiến lấy chân đẩy quả bộc phá vào. Lần này, nhờ có sức mạnh chân, tôi đẩy được quả bộc phá vào sâu, quả bộc phá bịt chặt lấy lỗ châu mai, địch không đẩy ra được nữa. Ngay lúc đấy tôi giật nụ xòe rồi chạy ra xa lô cốt độ mươi mười lăm thước. Quả bộc lôi nổ rất to. Tôi bị sức ép của quả bộc phá làm ngất đi mấy phút. Lúc tỉnh lại còn nằm ở dưới đất, mở mắt nhìn ra tôi thấy lô cốt đã tan tành, chỉ còn  một đống gạch trắng xóa, tôi lại thấy bóng các anh xung kích từng loạt, từng loạt lướt qua mắt tôi vội nhảy vào vị trí Đông Khê. Tôi thấy sung sướng quá, nghĩ bụng đã trả thù được cho bốn bạn trong tổ của tôi.
            Tôi đứng lên, chạy xuống tìm Ban Chỉ huy và xin Ban Chỉ huy cho phép tôi lên phá nốt mấy cái lô cốt nữa. Ban Chỉ huy không đồng ý và ra lệnh cho tôi phải về trạm quân y ngay. Tôi quay xuống chân đồi. Vừa xuống tới chân đồi thì mấy quả đại bác của địch rót tới, nổ ngay gần chỗ tôi đứng. Tôi bị bắn lên quá mặt đất mấy thước rồi mới rơi xuống, ngất đi một lúc. Lúc tỉnh dậy, tôi thấy bốn chị cứu thương đứng gần tôi, các chị bảo tôi nằm lên cáng để các chị cáng về. Lúc đấy trong đại đội tôi bị thương vong nhiều, tôi nghĩ tôi còn hai chân có thể đi một mình về trạm giải phẫu được để cho các chị cáng anh em khác lợi hơn. Bởi thế tôi không để các chị cáng, tôi đi một mình. Đường đi đến trạm giải phẫu cách bốn cây số. Tôi đi một lúc thì mệt quá phải nghỉ lại, rồi lại đứng dậy đi. Nhưng sau thì cứ đi một quãng lại ngã. Nhưng tôi nghĩ phải quyết tâm đi đến trạm giải phẫu. Dọc đường nhiều lần tôi khát nước quá, nhưng tôi nhớ lời dặn của bác sĩ, không được uống nước, nếu uống nước nhiều lúc ấy có thể chết. Tôi lại tranh đấu bản thân, cố nhịn không uống nước suối. Tôi phải trèo qua mấy cái đèo, nhọc quá. Đến sáng tôi mới về đến trạm giải phẫu. Chiều 17, bác sĩ cưa cụt cả tay phải của tôi đến bả vai. Được mấy hôm sau tôi thấy đã khỏe, tôi có đề nghị bác sĩ cho tôi trở về đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ để góp phần chiến đấu với anh em. Bác sĩ không cho phép.
            Xong chiến dịch, anh em trong đơn vị bình công, đề cử thưởng Huân chương Quân công hạng Ba cho tôi. Đề nghị đó được Bộ Tổng tư lệnh duyệt y. Ngoài ra, cấp Trung đoàn có quyết nghị khen tôi”…
       Tấm gương chiến đấu của anh La Văn Cầu đã cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công trong toàn  quân và trở thành lá cờ đầu trong phong trào thi đua sử dụng bộc phá công đồn, một hình thức chiến thuật mới của quân đội ta mở ra từ chiến dịch Biên Giới năm 1950. Với những chiến công của mình, anh La Văn Cầu được tặng thưởng một Huân chương Quân công hạng ba (năm 1950), Huân chương Kháng chiến hạng nhất và được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đợt đầu (năm 1952).
    * Khi dạy bài 19 (Lịch sử 12): BƯỚC PHÁT TRIỂN CỦA CUỘC KHÁNG          
                               CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1951-1953)
           - Ở mục III: “Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt”. Khi trình bày về Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất (1-5-1952) đã tổng kết, biểu dương thành tích của phong trào thi đua yêu nước và chọn 7 anh hùng, đó là: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh. Giáo viên có thể kể về thành tích của các anh hùng đó bằng cách kể chuyện. Ví dụ: Anh hùng Cù Chính Lan và Nguyễn Thị Chiên.

   Cù Chính Lan (1930 - 1951) sinh nǎm 1930 tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được tuyên dương Anh hùng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 13 tháng 12 năm 1951, trong trận tấn công cứ điểm Giang Mở, cách thị xã Hòa Bình 8 km về phía Nam, Cù Chính Lan đã một mình đuổi xe tǎng Pháp, nhảy lên thành xe, ném lựu đạn vào buồng lái để tiêu diệt địch. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, mẹ chết sớm, nhà đông em, Cù Chính Lan phải lao động vất vả ngay từ bé dưới chế độ bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến để cùng cha nuôi sống đàn em dại. Hoàn cảnh đó đã tạo cho Cù Chính Lan những đức tính tốt như : cần cù, nhẫn nại, thương người cùng cảnh khổ, căm thù sâu sắc giai cấp địa chủ bóc lột và bọn thực dân cướp nước.
     Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Cù Chính Lan xung phong tình nguyện nhập ngũ năm 1946. Chẳng bao lâu đồng chí đã nổi bật trong học tập và công tác, ngay cả lúc ốm nằm việnn, với tinh thần luôn luôn gương mẫu xung phong làm mọi việc mình có thể làm được để giúp đỡ đóng đội, góp phần tích cực xây dựng đơn vị. Thời kỳ là chiến sĩ liên lạc, đồng chí đã được biểu dương là “quân nhân gương mẫu”; thời kỳ đi nằm bệnh xá, đã được anh em thương, bệnh binh tặng danh hiệu “Người chị cả hiền từ”. Khi được đề bạt làm tiểu đội trưởng. đồng chí luôn luôn chăm lo xây dựng đơn vị tiến bộ toàn diện, cùng anh em đưa tiêu đội từ kém lên khá. Bản thân đồng chí luôn luôn gương mẫu, khiêm tốn: giản dị, thương yêu đồng đội, được anh em mến phục, tin yêu. Đặc biệt trong chiến đấu, Cù Chính Lan luôn luôn nêu cao tinh thần dung cảm, táo bạo, mưu trí, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
    Trận Giang Mỗ lần thứ nhất ngày 7 tháng 12 năm 1951 : khi bố trí trận địa bị lộ, địch bắn dữ dội, trên ra lệnh tạm thời rút lui. Đồng chí dũng cảm đi sau cùng, dùng súng máy bắn kiềm chế địch cho đơn vị rút, rồi quay lại tìm anh em bị thương, đưa được ba đồng chí trở về đơn vị an toàn.
    Trận Giang Mỗ lần thứ hai ngày 13 tháng 12 năm 1951, khi địch lọt vào trận địa, cả đơn vị nổ súng quyết liệt, diệt gọn một đại đội địch. Lúc chuẩn bị rút thì một xe tăng địch tiếp viện tới, bắn dữ dội vào đội hình ta, chặn đường rút và làm nhiều anh em
thương vong. Cù Chính Lan căm giận xông lên. Anh nhảy lên xe tăng kề tiểu liên vào khe hở trên tháp xe bóp cò. Nhưng không may tiểu liên bị hóc. Chiếc xe vẫn vừa chạy vừa bắn. Cù Chính Lan hô anh em tập trung lựu đạn đến cho mình, rồi lại nhanh nhẹn nhảy lên xe, giật nắp, quẳng lựu đạn vào. Giặc nhặt lựu đạn ném ra và hốt hoảng lái xe tăng, chuyển hướng vội vàng chạy về vị trí. Thời cơ diệt xe tăng địch ngay trước mắt, không thể để nó chạy thoát, Cù Chính Lan dũng cảm táo bạo mở chốt lựu đạn, chờ cho khói thuốc xì ra được vài giây rồi mới ném vào buồng lái. Lựu đạn nổ. Những tên giặc trong xe chết đè lên nhau. Chiếc xe dừng tại chỗ. Trận đánh kết thúc thắng lợi. Tấm gương của đồng chí đã có tác dụng cổ vũ toàn quân thi đua diệt xe tăng và xe cơ giới địch.
    Ngày 29 tháng 12 năm 1951, tham gia đánh đồn Cô Tô, bị thương hai lần, Cù Chính Lan vẫn dũng cảm xông lên phá tiếp hai lớp rào mở đường cho đơn vị tiến vào. Lần thứ ba, bị thương nặng, đồng chí vẫn không chịu rời trận địa, nằm tại chỗ chỉ hướng tiến và động viên anh em vào sau diệt địch. Cù Chính Lan đã anh dũng hy sinh khi trận đánh đồn Cô Tô vừa kết thúc thắng lợi. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội trưởng bộ binh, thuộc đại đoàn 304, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
   Cù Chính Lan đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng hai. Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5 năm 1952, Cù Chính Lan được Chính phủ và Hồ Chủ tịch truy tặng Huân chương Quân công hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng nhất.
    Ngày 19 tháng 5 năm 1952, Cù Chính Lan được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

     Anh hùng Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930, được trao tặng danh hiêu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân ngày 19 tháng 5 năm1952. Huân chương Quân công hạng ba, Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 Huân chương Kháng chiến hạng nhất. Năm 1952, cô được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng khẩu súng ngắn của Người. Nguyễn Thị Chiên quê ở Xã Tán Thuật, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1952, cô tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật đánh địch chống càn, phá giao thông đường 39, phá tề, diệt và bắt nhiều địch. Cô đã diệt, làm bị thương và bắt 15 địch. Tháng 4 năm 1950, khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, cô bị địch bắt, dụ dỗ, tra tấn suốt 3 tháng rưỡi vẫn kiên trung bất khuất. Tháng 10/1951, trong trận phục kích đánh đich trên đường 39, cô bắn bị thương 1 tên địch, bắt sống 6 tên địch, thu 4 súng. Tháng 12/1951, khi địch lùng sục vào làng, cô chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống 4 địch có một tên trung uý. Ngày 19/5/1952, cô được bầu là chiến sỹ thi đua toàn quốc, được Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
     Nguyễn Thị Chiên là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được Nhà nước ta được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    Sau kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Thị Chiên công tác tại Tổng cục Chính trị, Quân khu Thủ đô, được phong quân hàm trung tá năm 1984.
Theo Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
     * Khi dạy bài 20 (Lịch sử 12):       CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC 
                                             CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953-1954) 

         - Ở mục II.1: “Cuộc tiến công chiến lược Đông – xuân 1953-1954”. Khi trình bày diễn biến giáo viên lồng ghép kể chuyện nhân vật lịch sử: Bế Văn Đàn   


 Ngày tháng năm sinh: Sinh năm 1930 - Hy sinh ngày 12/12/1953
Quê quán: Xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hoà ( nay là huyện Quảng Hoà), tỉnh Cao Bằng.
Năm tham gia cách mạng: Năm 1949.
Năm nhập ngũ: Năm 1949.
Ngày vào Đảng cộng sản Việt Nam: Năm 1953.
Dân tộc: Tày
 Quá trình tham gia cách mạng:
    - Bế Văn Đàn khi hy sinh là Tiểu đội phó thuộc Đại đội 674, Tiểu đoàn 251, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316.
    - Đông Xuân 1953 - 1954, Bề Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn cùng đơn vị hành quân đi chiến dịch. Một đại đội của Tiểu đoàn 251 được giao nhiệm vụ bao vây địch ở Mường Pồn (Lai Châu). Thấy lực lượng ta ít, địch tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai đợt chúng đèu bị quân ta đánh bật lại. Tình hình chiến đấu hết sức căng thẳng. Địch liều chết nống ra. Ta kiên quyết ngăn chặn.
   - Bế Văn Đàn vừa đi công tác về đã xung phong làm nhiệm vụ. Đồng chí vượt qua lưới đạn dày đặc của địch truyền mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chu đáo.
   - Tình hình chiến đấu ngày càng ác liệt, đồng chí được lệnh ở lại đại đội chiến đấu. Khi quân địch phản kích đợt ba, địch điên cuồng mở đường tiến. Đại đội thương vong chỉ có 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên không bắn được do xạ thủ hy sinh, còn khẩu trung liên của Chu Văn Pù không bắn được vì chưa tìm được chỗ đặt súng.
   - Không do dự, Bế Văn Đàn rời khỏi công sự, lao đến cầm hai chân trung liên đặt lên vai mình nói như ra lệnh: "Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi". Khẩu trung liên nhả đạn về phía quân địch, đẩy lùi đợt phản kích.
   - Bế Văn Đàn mình đầy thương tích, đồng chí đã anh dũng hy sinh, hai tay còn ghì chặt chân súng trên vai. Đồng chí được kết nạp Đảng tại trận địa.
- Phần thưởng được nhà nước trao tặng:
  • Huân chương Quân công hạng nhì.
  • Huân chương Chiến công hạng nhất.
  • Truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 31/5/1955.
Bảo Tàng Lịch Sử Quân Sự Việt Nam

     - Ở mục II.2: “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ”.
        + Khi giảng về phần công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, giáo viên lùng ghép hình ảnh hy sinh của chiến sĩ Tô Vĩnh Diện khi đang làm nhiệm vụ bằng cách kể chuyện:
     Tô Vĩnh Diện (1924-1953), Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng Vũ Trang Nhân dân (Truy phong; 7/5/1955), khi hy sinh, anh là Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng Nhất
      Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở, anh phải chịu bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương. Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ đội.
     Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an toàn.
     Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh xung phong lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như lúc nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xẩy ra.
    Kéo pháo vào đã gian khổ, hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt, anh đã đi sát từng người, động viên giải thích nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết tâm cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.
     Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp và cong rất nguy hiểm. Tô Vĩnh Diện cùng đồng đội Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, anh Ty bị hất xuống suối. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô đồng đội: “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và anh buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ pháo dừng lại.
    Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.
     + Khi trình bày về diễn biến đợt 1của chiến dịch Điện Biên Phủ. Giáo viên có thể lùng ghép hình ảnh hy sinh của chiến sĩ Phan Đình Giót khi đang làm nhiệm vụ bằng cách kể chuyện:
     Phan Đình Giót (1922-13/3/1954), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (truy phong; 31/3/1955), Khi hy sinh anh là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Huân chương Quân công hạng Nhì.
      Phan Đình Giót Anh sinh nǎm 1920 ở làng Tam Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình rất nghèo. Bố bị chết đói. Anh phải đi ở từ năm 13 tuổi cực nhọc, vất vả. Cách mạng tháng Tám thành công, anh tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm 1950, anh xung phong đi bộ đội chủ lực. Trong cuộc sống tập thể quân đội, Phan Đình Giót luôn tự giác gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn nên được đồng đội mến phục. Phan Đình Giót tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.
     Mùa đông năm 1953, đơn vị anh được lệnh tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Hành quân gần 500 km, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng nhưng đồng chí vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích. Trong nhiệm vụ xẻ núi, mở đường, kéo pháo lên đèo xuống dốc vào trận địa rất gay go gian khổ, anh đã nêu cao tinh thần gương mẫu, bền bỉ và động viên anh em kiên quyết chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên.
    Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tiêu diệt Him Lam. Cả trận địa rung chuyển mù mịt sau nhiều loạt pháo ta bắn chuẩn bị. Các chiến sỹ đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung phong đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hoả lực trút đạn như mưa xuống trận địa ta. Đồng đội bị thương vong nhiều. Lửa căm thù bốc cao, anh lao lên đánh liên tiếp hai quả nữa phá toang hàng rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi dụng thời cơ địch đang hoang mang, Phan Đình Giót vọt lên bám chắc lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Anh lại bị thương vào vai, máu chẩy đầm đìa. Nhưng bất ngờ từ hoả điểm lô cốt số 3 của lính Pháp bắn rất mạnh vào đội hình ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại, Phan Đình Giót cố gắng lê lên nhích dần đến gần lô cốt số 3 với ý nghĩ cháy bỏng, duy nhất là dập tắt ngay lô cốt này. Anh đã dùng hết sức mình còn lại nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng hô to:   "Quyết hy sinh…vì Đảng…vì dân!!.." rồi rướn người lấy đà, lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hoả điểm lợi hại nhất của quân Pháp đã bị dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi hy sinh, Phan Đình Giót đã được Tiểu đoàn, Đại đoàn khen thưởng 4 lần.




















                                                                                                            
D. LỜI KẾT: 
      Qua kể chuyện một số nhân vật lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1946-1954  nói trên cho thấy việc áp dụng phương pháp sử dụng phương pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử có thể giúp cho học sinh nhận thức được các sự kiện lịch sử một cách trực quan và sinh động. Đây là một phương pháp mà trong chương trình lich sử phổ thông ít đề cập đến. Trong năm học 2011 - 2012 bản thân đã áp dụng phương pháp dạy học này để giảng dạy lịch sử ở các lớp khối 12 thì nhận thấy rằng đa số học sinh tỏ ra rất thích thú, ham học đưa việc dạy và học ngày càng cao hơn.
     Hy vọng rằng với sự góp ý chân thành của các em học sinh và đặc biệt là các thầy cô giáo đồng nghiệp, đề tài này sẽ được bản thân tiếp tục triển khai và hoàn thiện trong những năm học tới. Tôi xin chân thành cảm ơn.

                                                            Hương Thuỷ, ngày 31tháng  3 năm 2012
                                                                            Người thực hiện



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét